Tịnh Độ Đại
Kinh Giải Diễn Nghĩa
淨土大經解演義
Phần 13
Chủ giảng: Lăo pháp sư Tịnh Không
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử
Như Ḥa
Thời gian: Ngày 5 tháng 04 năm 2010
Địa điểm: Hương Cảng
Phật Đà Giáo Dục Hiệp Hội
Giảo duyệt: Minh Tiến,
Huệ Trang và Đức Phong
Tập 25
“Hựu Hải Đông Nguyên Hiểu sư Tông Yếu
vân: - Phát Bồ Đề tâm, thị minh chánh nhân” (Lại
nữa, trong bộ Tông Yếu, ngài Nguyên Hiểu xứ Hải
Đông nói: “Phát Bồ Đề tâm là chỉ rơ chánh nhân”). Nguyên
Hiểu đại sư là người Đại Hàn, trong
phần trước, chúng tôi đă giới thiệu sơ
lược. Tông Yếu là tên gọi bản chú sớ của
lăo nhân gia nhằm giảng giải kinh Vô Lượng Thọ,
tức là chú giải kinh Vô Lượng Thọ. Ở đây,
Ngài nói “phát Bồ Đề tâm”
nhằm chỉ rơ chánh nhân; các tổ sư đại đức
đều nhấn mạnh tính chất trọng yếu của
phát Bồ Đề tâm. Nếu chẳng phát Bồ Đề
tâm, sẽ như Thiện Đạo đại sư đă
nói, tới cuối cùng chẳng thể văng sanh Tịnh
Độ! Do vậy, chúng ta phải coi trọng hai nguyện
trong bốn mươi tám nguyện, chứ chẳng phải
chỉ là một nguyện. Nhiều người coi trọng
nguyện thứ mười tám, [không chú ư đến nguyện
thứ mười chín]. Nguyện thứ mười tám là “mười niệm ắt văng sanh”;
nguyện thứ mười chín nói “phát Bồ Đề tâm” và [hết thảy những
ai] sanh về thế giới Cực Lạc đều là A
Duy Việt Trí Bồ Tát, nguyện thứ mười chín giảng
những điều này. Trong Yếu Giải, Ngẫu Ích
đại sư đă giảng rất hay, Ngài nói có thể
văng sanh hay không hoàn toàn do có tín nguyện hay không. Quư vị có
ḷng tin sâu xa, nguyện thiết tha th́ sẽ văng sanh; có thể
thấy sự trọng yếu của phát Bồ Đề
tâm! Công phu niệm Phật sâu hay cạn sẽ giúp quư vị
nâng cao phẩm vị sau khi văng sanh thế giới Cực Lạc.
Nếu niệm Phật chẳng có công phu, nhưng thật
sự có ḷng tin sâu đậm, nguyện thiết tha, nguyện
ấy là Bồ Đề tâm, thật sự có tâm độ
chúng sanh, thật sự có tâm làm Phật, khi lâm chung, một
niệm hay mười niệm đều có thể văng sanh.
Khai thị này vô cùng trọng yếu, chúng ta nhất quyết
chớ nên xem thường!
Tiếp theo đó, sách giảng rơ Bồ
Đề tâm. “Hựu vân phát Bồ
Đề tâm hữu nhị” (lại nói phát Bồ Đề
tâm có hai loại), điều “lại
nói” ấy vẫn ở trong sách Tông Yếu.
1) Thứ nhất là “tùy sự phát tâm, phiền năo vô biên, nguyện tất
đoạn chi. Thiện pháp vô lượng, nguyện tất
tu chi. Chúng sanh vô biên, nguyện tất độ chi. Thử
tâm quả báo, tuy tại Bồ Đề, nhi kỳ hoa báo tại
ư Tịnh Độ” (phát tâm theo mặt Sự, phiền
năo vô biên, nguyện đều đoạn hết; thiện
pháp vô lượng, nguyện đều tu trọn; chúng sanh
vô biên, nguyện đều độ hết. Tâm này tuy có quả
báo là Bồ Đề, nhưng hoa báo của nó là Tịnh
Độ). Điều này cũng nói rất hay, chúng ta đọc
đoạn này, liền biết đó là Tứ Hoằng Thệ
Nguyện: “Chúng sanh vô biên thệ
nguyện độ, phiền năo vô tận thệ nguyện
đoạn, pháp môn vô lượng thệ nguyện học,
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành”,
đấy là Tứ Hoằng Thệ Nguyện. Trong đoạn
[vừa trích dẫn từ sách Tông Yếu trên đây] đă
nhắc tới ba nguyện, nói tới ba điều ấy.
Quả báo của sự phát tâm tuy là Bồ Đề, Bồ
Đề là Chánh Giác, Bồ Đề là Chánh Đẳng
Chánh Giác, nhưng hoa báo thuộc về Tịnh Độ. Nói
cách khác, quả báo là thành tựu vô thượng Bồ
Đề tại Tịnh Độ, tới Tây
Phương Cực Lạc thế giới để thành tựu
nguyện cuối cùng, “Phật
đạo vô thượng thệ nguyện thành”, đấy
là quả báo viên măn rốt ráo. “Sở
dĩ nhiên giả” (nguyên nhân là), đây là trả lời
câu hỏi đă nêu, “Bồ
Đề tâm lượng, quảng đại vô biên,
trường viễn vô hạn” (tâm lượng Bồ
Đề rộng lớn vô biên, dài lâu vô hạn). Bồ
Đề tâm là giác tâm viên măn trong tự tánh. Trong kinh Hoa
Nghiêm, đức Thế Tôn đă dạy chúng ta: “Hết thảy chúng sanh đều
có trí huệ và đức tướng của Như Lai”,
Bồ Đề tâm là trí huệ. Nói thật ra, một tức
là hết thảy, hết thảy tức là một; nói
đến trí huệ th́ đương nhiên đức
năng và tướng hảo được bao gồm
trong ấy, một tức là nhiều, nhiều tức là một.
Trước hết, nói tới tâm lượng th́ tâm lượng
rộng lớn vô biên là nói về không gian, chẳng có ngằn
mé, không ǵ lớn mà ra ngoài được! “Trường viễn vô hạn” (dài lâu vô hạn) là
nói tới thời gian. [Thời gian và không gian] đều
là vô lượng, vô biên, vô tận, vô hạn. V́ thế, trong
Đại Thừa thường nói một câu như sau, đó
là sự thật, chẳng giả: “Tâm bao thái hư, lượng châu sa giới”, lời
này là thật. Tâm Phật là như thế, mà tâm của mỗi
chúng sanh chúng ta cũng đều như thế, chẳng có
mảy may sai biệt nào! Nay dường như trong vô sai biệt
có sai biệt, là v́ lẽ nào? Mê mất tự tánh. Do vậy,
trong vô sai biệt hiện ra sai biệt. Đối với
người giác ngộ, chẳng cần nói tới bậc Viên
Giác, Viên Giác là Phật, Đại Giác là Bồ Tát, trong cảnh
giới của họ, sai biệt chính là vô sai biệt. V́
sao? Đại Bồ Tát nhập pháp môn Bất Nhị, chúng
ta có hai, ba, các Ngài không có. Chúng ta có một và nhiều, các
Ngài cũng chẳng có. Chúng tôi hỏi lần nữa: “V́ sao?
V́ lẽ ǵ?” Nếu chúng ta thật sự hiểu rơ, trong Vọng
Tận Hoàn Nguyên Quán, Hiền Thủ quốc sư đă giảng
về ba thứ “châu biến”
(trọn khắp), quư vị chưa hiểu rơ hay sao? Đó
là cảnh giới Hoa Nghiêm viên măn. Bất luận chánh báo
hay y báo, hiện thời các khoa học gia nói tất cả hết
thảy hiện tượng là hiện tượng dao
động, thuyết ấy rất có lư. Các khoa học gia
cận đại nói trong vũ trụ thứ ǵ cũng đều
không có, mà là dao động. Hiện tượng tinh thần
do dao động h́nh thành, hiện tượng vật chất
cũng do dao động h́nh thành, muôn h́nh muôn vẻ khác biệt
là do tần số [dao động] khác nhau. Cách nói này tương
ứng với những điều được giảng
trong kinh Phật, tương ứng với ba thứ “châu biến”: “Châu biến pháp giới, xuất sanh vô tận”.
Câu nói kế tiếp quả thật là tâm bao thái hư,
lượng châu sa giới, “chứa
đựng Có và Không”.
“Cố năng cảm đắc quảng đại
vô tế y báo Tịnh Độ, trường viễn vô
lượng chánh báo thọ mạng” (v́ thế, có thể
cảm được Tịnh Độ y báo rộng lớn
không ngằn mé, chánh báo có thọ mạng dài lâu vô lượng),
hai câu cuối này hay quá! “Trừ
Bồ Đề tâm, vô năng đương thử”
(trừ Bồ Đề tâm ra, không ǵ có thể như vậy
được). Câu này có nghĩa là y báo và chánh báo trang nghiêm
trọn khắp pháp giới hư không giới do đâu mà
có? Cụ Hoàng nói là do Bồ Đề tâm mà có. Bồ Đề
tâm là ǵ? Kiến văn giác tri. Trong tự tánh, đoạn hết
tập khí vô minh sẽ trở về Thường Tịch
Quang, trong ấy không có hiện tượng vật chất,
mà cũng chẳng có hiện tượng tinh thần. Do vậy,
có những người hỏi tôi: Nếu họ chẳng
khởi tâm, không động niệm, họ c̣n có tri giác hay
chăng? Họ có tri giác th́ chẳng phải là khởi tâm
động niệm ư? Không khởi tâm, không động
niệm, làm sao họ có tri giác được? Họ có những
thứ ấy! Thật sự là chẳng có hiện tượng
tinh thần và vật chất, nhưng họ có kiến
văn giác tri. Kiến văn giác tri là trí huệ Bát Nhă trong tự
tánh, nó bất sanh, bất diệt, v́ nó chẳng phải là
vật chất, mà cũng chẳng phải là tinh thần. Vật
chất và tinh thần đều là pháp sanh bởi các duyên,
chúng ta nói tinh thần là ǵ? Là Thọ, Tưởng, Hành, Thức.
Nếu một niệm vọng động, kiến văn
giác tri sẽ biến thành Thọ, Tưởng, Hành, Thức.
Có Thọ, Tưởng, Hành, Thức th́ từ trong Thọ,
Tưởng, Hành, Thức sẽ biến hiện hiện
tượng vật chất. Đó chính là những điều
người ấy cảm thụ, suy nghĩ, phán đoán,
nhận biết, tự nhiên biến hiện ra! V́ thế,
trọn khắp pháp giới hư không giới, lục
đạo chúng sanh trong hết thảy các cơi Phật,
cũng có thể nói là bao gồm cả mười pháp giới,
hễ chúng sanh có cảm, sẽ tự nhiên có ứng, sống
động, hoạt bát, chẳng phải là chết cứng!
Khi họ cảm, sẽ hiện tướng, chẳng phải
do khởi tâm động niệm bèn hiện tướng,
mà do cảm ứng bèn hiện tướng. Tuy hiện
tướng, vẫn chẳng khởi tâm động niệm,
hoàn toàn do tự tánh khởi tác dụng, chẳng thể
nghĩ bàn! Chúng ta muốn lư giải nó, sẽ trật lất,
quư vị chẳng thể lư giải được, v́ sao? Quư
vị vận dụng tâm ư thức, nhưng tâm ư thức chẳng
thể duyên tự tánh. Phải làm sao mới có thể duyên được?
Buông tâm ư thức xuống, nó sẽ hiện tiền, lập
tức chính là [tự tánh]. Trong pháp Đại Thừa,
đấy chính là cảnh giới tối cao trong Thiền
Tông hay trong bất luận tông phái nào! Hai câu cuối cùng ư nói:
Trừ Bồ Đề tâm ra, không điều ǵ có thể
đảm đương chuyện này! Quả thật đă
nêu ra căn bản, đó là trí huệ Bát Nhă vốn sẵn
có trong tự tánh. Đó là “tùy Sự”
(xét theo mặt Sự) [để luận định Bồ
Đề tâm].
2) Kế đó, điều
thứ hai là “thuận Lư phát
tâm, tín giải chư pháp giai như huyễn mộng, phi hữu,
phi vô, ly ngôn, tuyệt lự” (Thuận theo Lư để phát
tâm, tin hiểu các pháp đều như huyễn mộng, chẳng
phải có, chẳng phải không, ĺa ngôn ngữ, dứt suy lường). Đoạn văn
này khá dài, chúng ta xem trước câu này. Trước hết,
quư vị phải tin tưởng, chớ nên hoài nghi, nghi là
chướng ngại lớn nhất của Bồ Tát,
đó là hoài nghi. V́ sao chúng ta học Phật tu hành chẳng
thể thành tựu? Nói thật ra, có mấy ai thật sự
tin Phật? Tin Phật suốt một đời,
nhưng đối với Phật vẫn đánh dấu hỏi:
“Rốt cuộc là thật sự có Phật hay chăng?” Ai
có thể chẳng có mảy may nghi hoặc nào? [Nếu chẳng
có mảy may nghi hoặc nào], sẽ là chân tín; người chân
tín chắc chắn sẽ y giáo phụng hành, quả báo chẳng
thể nghĩ bàn! Chúng ta hoài nghi Phật, quư vị nói xem:
Không tin mà vẫn cứ khăng khăng là tin; quư vị nói “hăy
tin tưởng thật sự”, kẻ ấy làm không
được. Do vậy, Phật pháp đúng
là khó khăn! Phật pháp đúng là “biết khó, hành dễ”,
cái “biết” ấy là ǵ vậy? Chẳng nghi mới là biết!
Hễ có nghi, sẽ chẳng biết. Tuy biết, nhưng
chẳng thấu triệt, thô trược lắm! Chân tín sẽ
chân giải; v́ vậy, tín và giải liên quan với nhau. Bọn
phàm phu chúng ta thật sự hiểu rơ, minh bạch, nên tin
tưởng, đó là căn tánh trung hạ. Nếu chẳng
hiểu rơ ràng, minh bạch, mà lại thật sự tin
tưởng th́ người ấy khó có lắm, v́ sao? Người
ấy có thể khăng khăng một mực tu hành, sẽ
thành tựu. Cổ nhân Trung Quốc gọi hai hạng
người ấy là “thượng
trí, hạ ngu”, được bao nhiêu người?
Thượng trí cũng chẳng nhiều, hạ ngu cũng
chẳng lắm! Tuy hạ ngu chẳng thể thông hiểu,
nhưng quư vị dạy họ, họ sẽ khăng
khăng một mực tu tập thật sự. Bảo họ
niệm Phật, họ niệm đôi ba năm liền thật
sự văng sanh, tướng lành hiếm có. Họ có hiểu
đạo lư trong kinh hay chăng? Chẳng hiểu! Người
đồ đệ làm nghề vá nồi của lăo ḥa
thượng Đế Nhàn là loại người này, khi
ông ta văng sanh, lăo ḥa thượng tán thán: “Hy hữu!” Ngài tán
thán sự thành tựu của ông ta: “Pháp sư giảng kinh, thuyết pháp, trụ tŕ
phương trượng của các đạo tràng nơi danh
sơn chẳng bằng ông, chẳng sánh bằng ông”. Lời
tán thán của lăo ḥa thượng là thật, chẳng giả.
Đứng mất, lại c̣n đứng suốt ba ngày, chờ
pháp sư Đế Nhàn đến lo liệu hậu sự
thay cho ông ta. Người b́nh thường chẳng thể
làm được!
V́ vậy, tín giải!
“Chư pháp” là hết thảy
các pháp do đức Phật đă nói đều như huyễn
mộng, chẳng phải là thật. Thật sự tin
tưởng, thật sự lư giải, đối với hết
thảy các pháp, quư vị quyết định chẳng chấp
trước, mà cũng quyết định chẳng phân biệt,
thậm chí đối với hết thảy các pháp chẳng
khởi tâm, chẳng động niệm, quư vị bèn đắc
tam-muội. Hết thảy các pháp “phi hữu, phi vô”, chẳng thể nói chúng là có, mà
cũng chẳng thể nói chúng là không! Quư vị nói chúng là
không th́ chúng có tướng. Quư vị nói chúng là có, tướng
ấy chẳng tồn tại, chỉ là một thứ
tướng gần như liên tục hết sức ngắn
ngủi, tạm bợ, chẳng tồn tại. Chúng ta xem
phim, trước đây phim được chiếu bằng
máy đèn soi, mỗi giây thay đổi hai mươi bốn
tấm, từng tấm được chiếu chẳng ngừng.
Mỗi giây là hai mươi bốn tấm, thời gian mỗi
tấm [được chiếu lên màn bạc] là một phần
hai mươi bốn giây. Quư vị c̣n chưa nghĩ kịp
th́ nó đă thay đổi rồi! Pháp sanh diệt ấy có tốc
độ sanh diệt quá nhanh! Di Lặc Bồ Tát bảo một
cái khảy ngón tay, chẳng phải là một giây,“trong một khảy ngón tay có ba
mươi hai ức trăm ngàn niệm”, làm sao quư vị
có thể nói nó là có? Làm sao quư vị có thể nói nó là không? Chân
tướng sự thật là “phi hữu, phi vô”. “Ly ngôn, tuyệt lự”: Quư vị
không có cách nào diễn tả. Hễ quư vị nói th́ thời
gian đă trôi qua rất lâu rồi, chẳng biết nó
đă đi đâu mất rồi! “Lự” (慮) là suy tưởng; quư vị
cũng chẳng thể suy nghĩ. V́ thế, nói “ngôn ngữ đạo đoạn,
tâm hành xứ diệt”. “Ly ngôn” là ngôn ngữ đạo
đoạn, “ly niệm” là “tuyệt lự”, tâm hành xứ
diệt! Ngôn ngữ và tư lự đều chẳng thể
thấu đạt được! Đó là chân tướng
của nó.
“Y thử tín giải, phát quảng đại tâm”
(nương vào sự tín giải ấy, phát tâm rộng lớn).
Sự tín giải ấy đă được diễn tả
trong bốn câu trước đó: “Tín giải chư pháp, giai như huyễn mộng,
phi hữu, phi vô, ly ngôn, tuyệt lự” (tin hiểu các
pháp đều như huyễn mộng, chẳng phải có,
chẳng phải không, ĺa ngôn ngữ, dứt suy lường);
bốn câu ấy đă nêu bày chân tướng của hết
thảy các pháp. “Phát quảng
đại tâm” là ǵ? Chân tâm hiện tiền, quư vị
đối với hết thảy các pháp cũng chẳng
c̣n khởi tâm, động niệm, phân biệt, chấp
trước nữa, khi ấy chính là “phát quảng đại tâm”. Quảng đại
tâm là ǵ? Chính là như trong phần trước đă nói: Tâm
độ chúng sanh, tâm đoạn phiền năo, tâm học
pháp môn. “Tuy bất kiến hữu
phiền năo, thiện pháp” (tuy chẳng thấy có phiền
năo hay thiện pháp), phiền năo là bất thiện, chẳng
trụ vào hai bên thiện và bất thiện, nhưng như
thế nào? Tâm thái của quư vị là “nhi bất bát vô đoạn khả tu” (nhưng chẳng
gạt bỏ “không có ǵ để có thể đoạn,
không có ǵ để có thể tu”), quư vị vẫn rất sốt
sắng đoạn ác tu thiện. Quư vị biết “không có
phiền năo để đoạn”, nhưng vẫn đoạn
trong ấy. Quư vị biết “cũng chẳng có thiện
pháp để tu”, nhưng vẫn tu trong ấy. Đối
với hai câu này, Hoàng lăo cư sĩ đă mở dấu ngoặc
để chú giải, sợ chúng ta nghe không hiểu, đúng
là từ bi! “Bất bát vô tức
bất bài trừ chi ư, bát giả, bài dă, vô giả, trừ
dă” (“Bất bát” nghĩa là chẳng bài trừ. Bát (撥) là gạt bỏ, Vô (無) là trừ bỏ đi). V́ thế,
câu trên đây có nghĩa là: “Tuy bất
kiến phiền năo dữ thiện pháp, đản nhưng
hữu khả tu dữ khả đoạn” (tuy chẳng
thấy có phiền năo và thiện pháp, nhưng vẫn có cái
thể tu và cái có thể đoạn), v́ sao? “Thị cố, tuy nguyện tất đoạn, tất
tu, nhi bất vi ư Vô Nguyện tam-muội” (do vậy,
tuy nguyện ắt đoạn, ắt tu, nhưng chẳng
trái nghịch Vô Nguyện tam-muội). Vô Nguyện tam-muội
là Đại Tam Không tam-muội. Chính ḿnh đă nhập cảnh
giới ấy, nhưng vẫn phải tu. Đối với
chính ḿnh mà nói th́ đă phá tập khí vô minh, nêu gương tốt
cho chúng sanh, cũng giống như diễn tuồng, biết
diễn tuồng là giả, vẫn diễn rất thật!
V́ sao? Diễn cho kẻ khác coi, khiến cho kẻ khác sau khi
xem sẽ bị cảm động mà giác ngộ. Đây là
nói rơ chư Phật, Bồ Tát ứng hóa trên thế gian, hiện
thân, hành động đều hoàn toàn nhằm giúp đỡ
chúng sanh. Nếu trong cảnh giới ấy, ta chẳng mong
muốn, nát thân diệt trí th́ sẽ biến thành Tiểu Thừa.
Đại Thừa và Tiểu Thừa khác nhau ở chỗ
này!
Tiểu Thừa A La
Hán kết thúc nơi cảnh giới ấy, chẳng muốn
thị hiện nữa, có được hay chăng? Không
được! V́ sao không được? Chưa đoạn
xong tập khí vô thỉ vô minh. Quư vị hăy nghĩ xem, đấy
là đạo lư ǵ? Muốn đoạn tập khí vô thỉ
vô minh, quư vị phải học như Phật, Bồ Tát: Vô
vi, mà không ǵ chẳng làm, không ǵ chẳng làm mà vô vi. Hai câu này
chẳng phải là có cùng một ư nghĩa với câu “nhập pháp môn Bất Nhị”
như đức Phật thường nói ư? Nhập pháp
môn Bất Nhị mới là Đại Thừa Bồ Tát. Đối
với chính ḿnh mà nói th́ mới có thể đoạn hết
bốn mươi mốt phẩm tập khí vô minh. Sau khi phá
vô minh, theo kinh Hoa Nghiêm, hàng Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên
Giáo phá vô minh cũng là không khởi tâm, không động niệm,
nhập cảnh giới ấy. Chúng ta nghĩ: Người
đạt tới mức chẳng khởi tâm, không động
niệm, đương nhiên chẳng có phân biệt, chấp
trước, lấy đâu ra bốn mươi mốt tầng
cấp! Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi
Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác, há có những
thứ ấy? Đă có những thứ ấy, chẳng phải
là lại có phân biệt, chấp trước hay chăng? V́
thế, trong hội giảng kinh Hoa Nghiêm, chúng tôi đă nói rất
minh bạch với các đồng học, có bốn
mươi mốt tầng cấp Bồ Tát hay chăng?
Không có! Cảnh giới Hoa Nghiêm là cảnh giới b́nh đẳng,
lấy đâu ra bốn mươi mốt tầng cấp? V́
sao đức Phật nói bốn mươi mốt tầng
cấp? Chính là nói tập khí khởi tâm động niệm
chưa đoạn, chứ thật ra chẳng có khởi
tâm động niệm! Xác thực là chẳng có! Vẫn c̣n
có tập khí khởi tâm động niệm, đấy là vi
tế vô minh. Vi tế vô minh rất khó đoạn, không có
cách nào đoạn trừ! V́ thế, tu hành trong cảnh giới
ấy được gọi là “vô
công dụng đạo”, cổ nhân thường nói “chẳng
thể dùng sức trong ấy!” Hễ dùng sức, toàn bộ
vọng tưởng, phân biệt, chấp trước đều
dấy lên!
Trong cảnh giới ấy,
nói cách khác, quư vị nói ra sao th́ phải làm như vậy.
Trong quá khứ, khi tu nhân, quư vị đă từng phát nguyện
độ chúng sanh, nay quư vị thành Phật, cớ sao chẳng
độ chúng sanh? Quư vị nói ra sao th́ phải làm như vậy,
phải thực hiện; khi ấy chính là lúc quư vị thực
hiện! Tuy thực hiện, nhưng chẳng khởi tâm
động niệm. Hễ chúng sanh cảm, Phật, Bồ
Tát liền ứng, cảm ứng đạo giao. Chúng sanh có
cảm, Phật bèn vô tâm ứng. Ngài chẳng khởi tâm
động niệm, chẳng có phân biệt, chẳng có chấp
trước mà ứng. Tuy ứng, vẫn là chẳng khởi
tâm, không động niệm, chẳng phân biệt, chẳng
chấp trước. Hiện thân là như thế, mà thuyết
pháp cũng như thế. V́ vậy, Thích Ca Mâu Ni Phật nói
Ngài giảng kinh bốn mươi chín năm, nhưng chẳng
nói một chữ nào! Chúng ta nghe lời ấy chẳng hiểu,
cớ sao chẳng nói một chữ nào? Hiện thời
người ta đă ghi chép [những lời Phật dạy]
thành một bộ Đại Tạng Kinh, nhưng Phật
nói Ngài chẳng nói một chữ nào! Đúng là chẳng nói
một chữ nào, v́ sao? Ngài chẳng khởi tâm động
niệm, Ngài nói ǵ? Rất khó thấu hiểu cảnh giới
ấy, nghe không hiểu! Rơ ràng là Ngài giảng kinh nhiều
ngần ấy, cớ sao nói “ngay cả một chữ
cũng chẳng nói?” V́ thế, đức Phật có một
tỷ dụ thiện xảo, Ngài dùng chuông trống làm tỷ
dụ. Quư vị gơ trống, dùng sức nện, âm thanh sẽ
lớn. Gơ nhè nhẹ, âm thanh bèn nhỏ. Trống có khởi
tâm động niệm hay không? Có phân biệt, chấp
trước hay không? Không có! Gơ mạnh kêu to, gơ nhẹ kêu nhỏ,
chẳng gơ sẽ chẳng kêu, đức Phật muốn chúng
ta từ chỗ này mà lănh hội: Ngài thật sự không
nói! Ngài nói là do lẽ nào? Do chúng sanh khởi tâm, động
niệm, Ngài bèn tự nhiên phản ứng, Tánh Đức
nơi tự tánh vốn là như vậy. Nếu không có phản
ứng th́ sao? Không có phản ứng tức là chết cứng
rồi. Ngài chẳng phải là chết cứng, mà là sống
động, hoạt bát. V́ thế, đức Phật thuyết
pháp giống như kinh Lăng Nghiêm đă nói: “Tùy chúng sanh tâm, ứng sở tri
lượng”, [tức là] tùy tâm, ứng theo khả
năng lănh hội [của thính chúng mà thuyết pháp].
Tiếp theo đó, “tuy nguyện giai độ vô lượng hữu
t́nh, nhi bất tồn năng độ, sở độ” (tuy
nguyện vô lượng hữu t́nh đều độ,
nhưng chẳng có ư niệm thấy có kẻ hóa độ
và người được hóa độ). Hễ có năng
độ và sở độ, tức là quư vị khởi tâm
động niệm. Có cái có thể hiện và cái được
hiện, có người nói và pháp được nói th́ toàn bộ
phân biệt, chấp trước sẽ dấy lên, quư vị
là phàm phu, chẳng phải là thánh nhân. Chúng ta phải học
theo thánh nhân, phải buông Năng và Sở xuống. Buông
Năng và Sở xuống chính là nói “quyết định chẳng
thể có chấp trước”. Trong cảnh giới, chẳng
chấp trước có thân ta, chẳng chấp trước
có thân người, buông tứ tướng xuống, vô ngă tướng,
vô nhân tướng, vô chúng sanh tướng, vô thọ giả
tướng, quư vị đạt được cái tâm
thanh tịnh. Tâm thanh tịnh khởi tác dụng hằng thuận
chúng sanh, chúng sanh có chấp trước, nếu quư vị chẳng
chấp trước, trong tâm họ sẽ nghĩ quư vị
là dị loại, chẳng thể nào sống cùng với quư
vị! Vậy th́ làm như thế nào? Phải thuận theo
họ mà chấp trước, chấp trước giống
hệt. Thuận theo họ chấp trước là hằng
thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức. Hằng thuận
và tùy hỷ là có phân biệt, có chấp trước, nhưng
công đức chẳng có phân biệt hay chấp trước.
Có chấp trước là chẳng chấp trước, chẳng
chấp trước là có chấp trước, quư vị nghe
có hiểu hay không? Tuyệt diệu! Tuyệt diệu ở
chỗ này! V́ thế, Bồ Tát ở nơi đâu cũng
khiến cho hết thảy chúng sanh sanh tâm hoan hỷ,
đúng là pháp hỷ sung măn. Lư này quả thật rất sâu,
nghe không hiểu cũng chẳng sao, chẳng cần phải
nghiên cứu, suy nghĩ nó, cứ nghe lần lượt nhiều
lần. V́ thế, Thích Ca Mâu Ni Phật chẳng ngại phiền,
giảng mỗi ngày, thường xuyên giảng. Nói chung,
nghe măi sẽ có một ngày nào đó hoát nhiên khai ngộ. V́
sao hoát nhiên khai ngộ? Do huân tập lâu ngày! Quư vị thấy
b́nh thường chính ḿnh huân tập phiền năo đă lâu,
bèn sanh phiền năo; nay huân tập thánh giáo lâu ngày sẽ [có lúc]
khai ngộ. V́ vậy, đừng sợ, cứ nghe cho nhiều;
hiện thời thuận tiện, do [nghe măi] một
đĩa CD mà có thể khai ngộ! Một đĩa CD nếu
mỗi ngày nghe mười lần, nghe suốt ba năm, chắc
chắn khai ngộ. Nghe một đĩa ấy suốt ba
năm, tâm định rồi, quư vị đắc tam-muội,
lẽ đâu chẳng khai ngộ? Chắc chắn khai ngộ!
Ai nấy đều có phần, vấn đề là quư vị
có chịu tin hay không? Quư vị có thể tin tưởng hay
không? Quư vị có bằng ḷng làm như vậy hay không? Mấu
chốt ở chỗ này! Chỉ cần bằng ḷng, Đại
Thừa chẳng khó!
“Như thị phát tâm, công đức vô biên. Thiết
sử chư Phật cùng kiếp diễn thuyết bỉ
chư công đức, do bất năng tận” (Phát tâm
như thế, công đức vô biên. Giả sử chư Phật
trọn hết một kiếp diễn nói công đức ấy,
vẫn chẳng thể nói trọn). Lời này là thật,
quư vị có thể chiếu theo những điều vừa
nói trên đây để phát tâm, chúng sẽ giúp cho quư vị
khai ngộ, giúp quư vị minh tâm kiến tánh. Công đức
ấy quá to! Tiếp theo đó là một câu nói [yêu cầu
hành nhân hăy] quên hết: “Cố
năng tùy thuận ư Không, Vô Tướng, như kinh ngôn”
(V́ thế, có thể tùy thuận Không, Vô Tướng,
như kinh dạy), đấy là điều được
nói trong kinh Kim Cang, “như thị
diệt độ vô lượng chúng sanh, thật vô chúng sanh
đắc diệt độ giả” (diệt độ
vô lượng chúng sanh như thế, nhưng thật ra chẳng
có chúng sanh nào được diệt độ). Câu này trích
từ kinh Kim Cang. Trong thế gian, chư Phật, Bồ Tát
diệt độ vô lượng chúng sanh, “diệt” là giúp chúng sanh diệt phiền năo, giúp chúng
sanh đoạn phiền năo, giúp chúng sanh chứng Bồ
Đề. Tuy giúp đỡ họ, chẳng chấp tướng.
Chúng sanh chấp tướng, chứ Phật, Bồ Tát chẳng
chấp tướng như thế. Các Ngài có thể tùy thuận
Không, Vô Tướng. Vô Nguyện tam-muội như đă nói
trong phần trước được gọi là Đại
Tam Không tam-muội, tức là Không, Vô Tướng, Vô Nguyện.
Nói cách khác, trong cuộc sống hằng ngày, trong lúc mặc
áo, ăn cơm, đều tương ứng với Không,
Vô Tướng, Vô Nguyện. Trong khi làm việc cũng tương
ứng, trong đăi người tiếp vật cũng tương
ứng, tương ứng với Đại Tam Không tam-muội,
tương ứng với Kim Cang Bát Nhă. Các Ngài không ǵ chẳng
làm, làm rất tích cực; tuy rất tích cực, chẳng
để lại dấu vết nào. Đó là ǵ? Nói cách khác, làm
mà không làm, không làm mà làm; làm và không làm là một, chẳng hai,
thật sự nhập pháp môn Bất Nhị. V́ thế,
đấy là công đức chân thật, vô biên công đức,
hết thảy chư Phật diễn nói các công đức
ấy bất tận, v́ sao? Công đức ấy xứng tánh,
đạo lư ở chỗ này!
Chúng ta xem đoạn
tiếp theo. Trong đoạn Tông Thú này, lăo cư sĩ
cũng nói rất nhiều, phân lượng rất lớn.
“Hựu Quán Kinh vân, dục sanh
bỉ quốc giả, đương tu tam phước”
(lại nữa, Quán Kinh nói: “Muốn sanh về cơi ấy,
hăy nên tu ba thứ phước”). Đối với phần
[kinh văn] trích dẫn ở chỗ này, do cụ đang giảng
về phát Bồ Đề tâm, nên chỉ trích dẫn điều
thứ ba: “Tam giả, phát Bồ
Đề tâm, thâm tín nhân quả, độc tụng Đại
Thừa, khuyến tấn hành giả” (ba là phát Bồ
Đề tâm, tin sâu nhân quả, đọc tụng Đại
Thừa, khuyến khích hành giả). Phía trước c̣n có hai
điều, ở đây, chúng tôi tiện dịp nói luôn: “Nhất giả, hiếu dưỡng
phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ
tâm bất sát, tu Thập Thiện Nghiệp” (một là hiếu
dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng,
từ tâm chẳng giết, tu Thập Thiện Nghiệp). Quư
vị phải biết điều đầu tiên là ǵ? Là căn
bản, cơ sở của Bồ Đề tâm. Không có
điều thứ nhất, sẽ chẳng có điều
thứ hai; không có điều thứ hai, sẽ không có
điều thứ ba. Nay chúng ta nói tới phát Bồ Đề
tâm, chúng ta thật sự làm, cớ sao làm chẳng giống,
chẳng xuất hiện thành quả, do nguyên nhân nào? Thiếu
căn bản, bỏ sót cơ sở. Nhiều kẻ xuất
gia đến trao đổi với tôi, họ bàn ǵ tôi
cũng chẳng nói năng ǵ hết. Vun bồi căn bản
rất khẩn yếu, nhưng họ trọn chẳng nghĩ
đến căn bản, làm sao quư vị có thể thành tựu
được? Căn bản chính là bốn câu ấy, có thể
làm được bốn câu trong điều thứ nhất
này hay không? Hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự
sư trưởng, có thể làm được hay không? Thực
hiện hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự
sư trưởng bằng Đệ Tử Quy. Khi mọi
điều trong Đệ Tử Quy đều làm
được, quư vị sẽ có căn bản này! Căn
bản ấy cạn hay sâu, mạnh hay yếu, trong ấy
c̣n có rất nhiều mức độ! Từ tâm chẳng
giết là giáo dục nhân quả. Tu Thập Thiện Nghiệp
là căn bản của Phật pháp. Trong kinh Thập Thiện
Nghiệp Đạo, đức Phật đă giảng rất
rơ ràng về pháp nhân thiên; đời sau quư vị biết
dùng thân người ra sao, sanh lên trời như thế nào.
Thanh Văn Bồ Đề, Duyên Giác Bồ Đề, cho
đến Vô Thượng Bồ Đề, đều lấy
Thập Thiện làm căn bản. Tách rời Thập Thiện,
đời sau quư vị sẽ chẳng được làm
thân người, đừng mong tiến lên cao! Tiến lên
thiên đạo, Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật
đều đừng mong tưởng, v́ ngay cả thân
người mà quư vị c̣n chưa đạt được!
Thật đấy, chẳng giả đâu! Do vậy, tại
Trung Quốc, văn hóa truyền thống của Trung Quốc
là Nho, Thích, Đạo ba nhà, thiếu một cũng không
được! Ba cội rễ của Nho, Thích, Đạo
ở ngay trong câu này. Căn bản của Nho gia là Đệ
Tử Quy, căn bản của Đạo gia là Thái Thượng
Cảm Ứng Thiên và Văn Xương Đế Quân Âm Chất
Văn, căn bản của Phật pháp là kinh Thập Thiện
Nghiệp Đạo; hàng xuất gia c̣n phải vun bồi một
căn bản nữa là Sa Di Luật Nghi, đó là căn bản
của hàng xuất gia. Căn cơ không có th́ làm sao có thể
thành tựu? Chúng ta học Phật chớ nên lừa người,
lừa người là có tội đấy!
Thật sự vun bồi ba thứ
căn bản ấy, quư vị học Phật có thể tu
thành Bồ Tát, tu thành Phật, tu Đạo có thể thành
thần, thành tiên, học Nho có thể thành thánh, thành hiền,
quyết định có thành tựu. Nếu cả ba căn
bản này đều không có, quư vị chẳng thể nào
thành tựu điều ǵ! Vun bồi ba thứ căn bản
từ chỗ nào? Vun bồi từ Đệ Tử Quy, giống
như ba tầng lầu, Đệ Tử Quy là tầng lầu
thứ nhất, Cảm Ứng Thiên là tầng lầu thứ
hai, Thập Thiện Nghiệp là tầng lầu thứ ba.
Ba căn bản ấy trọng yếu hơn bất cứ
thứ ǵ khác! Học Phật là học từ nơi đâu?
Học từ nơi đây! Vào thời cổ, những
căn bản này được vun bồi từ thuở
bé, thông thường là Nho và Đạo, từ văn hóa
truyền thống của Trung Quốc, quư vị có thể
nh́n ra. Thực thể vật chất trong văn hóa truyền
thống của Trung Quốc gồm ba thứ kiến trúc:
- Từ đường nhằm dạy
điều ǵ? Dạy về Hiếu, hiếu thảo cha mẹ,
tôn trọng thầy, Xuân Thu tế tổ. B́nh thường,
từ đường là trường học. Các trường
tư thục đều dùng từ đường làm
địa điểm dạy học. Tư thục là gia học,
nói theo cách bây giờ, tư thục là trường học
của con em trong gia tộc. Lúc b́nh thường, từ
đường chẳng có hoạt động, trừ Xuân
Thu tế tự ra, chẳng có hoạt động nào; cho
nên lợi dụng nơi chốn ấy để học
hành. V́ thế, nó là giáo dục luân lư và đạo đức.
- Thứ hai là Khổng Miếu. Khổng
Miếu cũng là hàng năm tế Khổng Tử một lần;
đó là hoạt động của nơi ấy, chứ
b́nh thường cũng chẳng có chuyện ǵ. V́ thế,
những người đọc sách tại địa phương
bèn lợi dụng nơi chốn này để kết xă.
Quư vị đọc Du Tịnh Ư Công Ngộ Táo Thần Kư thấy
nói đến Văn Xương Xă[1],
họ lợi dụng nơi ấy để kết xă, nhằm
học tập giáo dục đạo đức, tức là giáo
dục đạo đức của cổ thánh tiên hiền,
lợi dụng nơi chốn này.
- Thứ ba là miếu Thành Hoàng. Nói
chung, miếu Thành Hoàng đều thuộc về Đạo
gia hay Đạo giáo, dạy ǵ? Giáo dục nhân quả. Sự
giáo học ở nơi ấy đánh động con người
mạnh mẽ nhất. Khiến con người xúc động
nhất chính là Thập Vương Điện, Thập
Điện Diêm Vương nhằm biểu thị pháp. Xưa
kia, Diêm Vương Điện quá nửa là tượng
đắp, nhằm thuyết minh Địa Ngục Biến
Tướng Đồ, căn cứ theo Ngọc Lịch Bảo
Sao[2]; [đó là] giáo dục nhân quả.
Trẻ nhỏ từ
bé đă được huân tập từ ba thứ ấy,
cho nên căn cội được vun bồi vững vàng;
sau này, khi tiếp xúc Phật pháp sẽ hết sức dễ
dàng. Đối với họ, Thập Thiện Nghiệp Đạo
chẳng khó khăn tí nào! Căn bản tốt đẹp
mà! V́ thế, kẻ tại gia học Phật, đối với
Thập Thiện Nghiệp, Tam Quy, Ngũ Giới, chẳng
có tí vấn đề nào! Thật sự làm được;
người xuất gia học Phật thật sự có
căn bản. Thế hệ hiện tại của chúng ta
phiền quá! Ba căn bản Nho, Thích, Đạo đều
không có. Nếu chúng ta không có, chúng ta có hành được Thập
Thiện Nghiệp hay chăng? Không được. Trong kinh
Phật Tạng, đức Phật đă nói, kinh Phật Tạng
là một bộ kinh, chẳng phải là Đại Tạng
Kinh, phân lượng không nhiều lắm. Trong kinh Phật
Tạng, đức Phật nói: “Phật
tử, bất tiên học Tiểu Thừa, hậu học Đại
Thừa, phi Phật đệ tử” (Phật tử mà
trước hết chẳng học Tiểu Thừa rồi
sau đó mới học Đại Thừa, chẳng phải
là đệ tử Phật). Thích Ca Mâu Ni Phật nói lời
ấy: Quư vị chẳng học Tiểu Thừa rồi
sau đấy học Đại Thừa, đức Phật
chẳng chấp nhận quư vị! Phật giáo truyền
sang Trung Quốc rất hoàn chỉnh. Quư vị thấy Tứ
A Hàm trong Đại Tạng Kinh là kinh Tiểu Thừa, Kinh,
Luật, Luận của Tiểu Thừa. Vào thời Tùy -
Đường, có hai tông là Thành Thật Tông và Câu Xá Tông; hai
tông ấy là Tiểu Thừa, phải học hai tông ấy
trước, trước hết là học Tiểu Thừa.
Học xong Tiểu Thừa rồi mới học Đại
Thừa. Thích Ca Mâu Ni Phật dạy chúng ta điều này,
thời cổ luôn là như vậy. Nhưng kể từ giữa
đời Đường trở đi, Phật giáo Trung
Quốc chẳng học Tiểu Thừa, tại gia lẫn
xuất gia đều không học, vậy th́ có học Đại
Thừa được hay không? Trung Quốc dùng Nho và Đạo
để thay thế Tiểu Thừa. V́ thế, người
học Phật chẳng ai không đọc Tứ Thư, Ngũ
Kinh, tối thiểu cũng đọc Lăo Trang, dùng những
thứ ấy làm cơ sở, rồi mới học Đại
Thừa bèn rất có hiệu quả, chẳng kém Tiểu Thừa.
Đây là một đặc sắc của Phật giáo Trung
Quốc, cần phải biết: Do dùng Nho và Đạo làm cơ
sở, nên Nho, Thích và Đạo dung hợp thành một Thể.
Tại Trung Quốc,
trong xă hội, trên h́nh thức vẫn có Nho, Thích, Đạo,
trên thực tế, Nho, Thích, Đạo đă dung hợp
thành nhất thể. Kẻ học Đạo cũng đọc
kinh Phật, cũng đọc Tứ Thư, Ngũ kinh; học
Nho cũng học Đạo, mà cũng học Phật rất
phổ biến. Nhất là những kinh như kinh Kim Cang, kinh
Hoa Nghiêm, kinh Địa Tạng đă biến thành những
công khóa rất phổ biến, Nho cũng học, mà Đạo
cũng học. Tới thời cận đại, sau khi nhà
Thanh sụp đổ, xă hội Trung Quốc ở măi trong
t́nh trạng hỗn loạn, bất an; tiếp đó [Trung
Hoa] bị người Nhật Bản xâm lược, tám
năm Kháng Chiến. Chúng ta coi nhẹ những thứ truyền
thống này! Hiện thời, đúng như đức Phật
đă giảng trong kinh Vô Lượng Thọ: “Tổ tiên bất thiện, bất
thức đạo đức, vô hữu ngữ giả, thù
vô quái dă” (Tổ tiên chẳng lành, chẳng biết đạo
đức, không có ai nói [cho biết], nên cũng chẳng có
ǵ là lạ). Chúng ta chẳng thể trách cha mẹ, cũng
chẳng thể trách phụ mẫu, cũng không có thể trách
móc ông bà, chỉ có thể trách chúng ta sanh trong hoàn cảnh này.
Hoàn cảnh chẳng tốt đẹp, chúng ta ra đời
trong hoàn cảnh ấy. Chúng ta phải biết: Trong ấy,
có rất nhiều nhân tố, chẳng phải là họ cố
ư sơ sót, mà là do t́nh thế gây nên. Làm thế nào đây? Phải
bù đắp, phải bổ túc cơ sở giáo dục ấy.
Thật sự bỏ ra thời gian một hai năm để
vun bồi căn bản. Vun bồi căn bản thật sự
tốt đẹp th́ bất luận tu ǵ cũng đều
có thành tựu, điều này rất trọng yếu. V́ thế,
điều đầu tiên trong Tịnh Nghiệp Tam Phước
là nói về ba căn bản của Nho, Thích, Đạo. Có
những căn bản ấy mới có thể học Phật.
V́ thế, điều thứ hai là học
Phật, học Phật từ chỗ nào? “Thọ tŕ Tam Quy, cụ túc chúng giới, bất phạm
oai nghi” (thọ tŕ Tam Quy, đầy đủ các giới,
chẳng phạm oai nghi), tới lúc này mới nhập Phật
môn. Quư vị vừa mở kinh Phật ra, [bèn thấy] “thiện nam tử, thiện nữ
nhân”, v́ sao? Họ trọn đủ điều lành đầu
tiên, cũng có nghĩa là người ấy thật sự thực
hiện “hiếu dưỡng
phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ
tâm bất sát, tu Thập Thiện Nghiệp”, người
ấy thật sự làm được. Do người ấy
có điều kiện này, nên mới có thể tiếp nhận
Tam Quy Ngũ Giới trong Phật môn, khi xuất gia sẽ
tiếp nhận Sa Di Giới và hai mươi bốn món oai
nghi trong mười giới điều của Sa Di
Có cơ sở như
vậy th́ mới có thể đạt tới điều
thứ ba. Điều thứ ba là Đại Thừa, điều
thứ hai là Tiểu Thừa, chẳng trái nghịch thứ
tự. Đạt đến điều thứ ba là Đại
Thừa Bồ Tát. Điều thứ nhất của Đại
Thừa Bồ Tát là “phát Bồ
Đề tâm, thâm tín nhân quả”. Nhân quả ở đây
chẳng phải là nhân quả Tiểu Thừa, hay nhân quả
thế gian; nhân quả thế gian đă học trong điều
thứ nhất [của Tam Phước]. Nhân quả ở đây
là ǵ? Niệm Phật là nhân, thành Phật là quả, nói về
pháp môn Tịnh Độ, niệm Phật thành Phật! Chẳng
phải là nói tới nhân quả thông thường. Cách nói
này rất thấu triệt, chúng ta chớ nên không biết! Pháp
môn này dạy quư vị niệm Phật, đối với
nhân quả này, quư vị phải tin tưởng, tin sâu, nguyện
thiết, không ai chẳng văng sanh. “Độc tụng Đại Thừa”, “độc” (讀) là đối trước cuốn kinh để niệm.
Tụng (誦) là rời khỏi bản kinh, đọc thuộc
ḷng; quư vị niệm rất thuộc sẽ có thể
đọc thuộc ḷng. Đó là ǵ? Thâm nhập một môn, huân
tu lâu dài, quư vị sẽ có thể thành Phật! Đại
Thừa là nói đến ǵ? Nói theo nghĩa rộng sẽ là
kinh Đại Thừa. Giảng theo nghĩa hẹp là Đại
Thừa Vô Lượng Thọ Kinh, tức
là bộ kinh này, quư vị chắc chắn thành Phật, văng
sanh thành Phật. [Kinh này] phù hợp thế kỷ hiện
đại này nhất. Hiện thời, khoa học kỹ
thuật tiến bộ, kiến thức bùng nổ, con
người chuộng đơn giản. Đơn giản
nhất là bộ kinh này, mà bộ kinh Vô Lượng Thọ
này có thể bao gồm hết thảy các kinh do Thích Ca Mâu Ni
Phật đă nói trong bốn mươi chín năm, thật
đấy, chẳng giả đâu! Trong phần trước,
tôi đă thưa cùng quư vị, đúng là “một tức là hết thảy”, chẳng sót một
điều nào. V́ thế, bộ kinh này vô cùng thù thắng,
thập phương chư Phật tán thán. Tôi giảng kinh suốt
năm mươi hai năm, theo kinh nghiệm của tôi, giảng
bất luận kinh nào đều chẳng có pháp duyên thù thắng
như giảng kinh Vô Lượng Thọ. Nếu quư vị
nghe kinh, chú tâm suy nghĩ quan sát, sẽ có thể quan sát thấy
giảng bộ kinh này pháp duyên vô cùng thù thắng, bất luận
ở nơi nào, v́ sao? Chư Phật hộ niệm, long
thiên thiện thần ủng hộ. Chúng ta mắt thịt
chẳng thấy chúng sanh đông đảo! Cũng có những
kẻ được Hoa Lục gọi là “có công năng đặc
dị”, trong Phật pháp gọi là Thiên Nhăn Thông, có thể thấy
các chúng sanh ấy, họ biết đạo tràng này thính
chúng rất đông! V́ thế, đọc bộ kinh này, giảng
bộ kinh này, học tập bộ kinh này, cảm ứng
thù thắng khôn sánh. “Khuyến
tấn hành giả” là giáo hóa chúng sanh, đọc tụng
Đại Thừa là tự hành, tức là chính ḿnh nương
theo kinh giáo tu hành, tự hành, hóa tha, “khuyến” là khuyên người khác.
“Hựu viết” (lại nói), điều nói thêm này
cũng trích từ Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh. “Nhược hữu chúng sanh nguyện
sanh bỉ quốc, phát tam chủng tâm, tức tiện văng sanh”
(Nếu có chúng sanh nguyện sanh về cơi ấy, phát ra ba thứ
tâm sẽ liền văng sanh). Đây là phát Bồ Đề
tâm, v́ sao Bồ Đề tâm lại có ba thứ? Trong giáo pháp
Đại Thừa thường nói tới nhất tâm, ba tâm
ở đâu ra? Ba tâm là nhất tâm, nhất tâm là tam tâm, Phật
pháp nói tới Thể, Tướng, Dụng. Ở đây, nói
tới “tam tâm” tức là có Thể và Dụng, Dụng được
chia thành hai: Tự Thụ Dụng và Tha Thụ Dụng. Ta
dùng tâm ǵ để đối đăi chính ḿnh, dùng tâm ǵ để
đối xử với người. Quán Kinh dạy: “Nhất giả chí thành tâm, nhị
giả thâm tâm, tam giả hồi hướng phát nguyện
tâm. Cụ tam tâm giả, tất sanh bỉ quốc” (một
là chí thành tâm, hai là thâm tâm, ba là hồi hướng phát nguyện
tâm; trọn đủ ba tâm ấy, ắt sanh về cơi kia).
Quư vị thấy ở đây, Thể của Bồ Đề
tâm là chí thành tâm. Thành (誠) là ǵ? Giảng chữ này
như thế nào? Trong bút kư đọc sách, tiên sinh Tăng Quốc
Phiên đă định nghĩa rất hay, tương ứng
với Giáo pháp Đại Thừa, ông ta nói: “Nhất niệm bất sanh, thị vị Thành” (Một
niệm chẳng sanh th́ gọi là Thành). Khởi tâm động
niệm sẽ chẳng có Thành! Không khởi tâm, không động
niệm, tâm ấy là thành tâm, chí thành là Thành đến tột
bậc. Tiên sinh Tăng Quốc Phiên cũng là một người
học Phật, tôi nghĩ định nghĩa của ông ta
[dựa theo những] điều được nói trong
kinh Đại Thừa. Ai có chí thành tâm? Thưa quư vị, Sơ
Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo. Trong mười pháp giới không
có, chúng ta biết giai tầng cao nhất trong mười
pháp giới là Phật, [tứ thánh trong] mười pháp giới
là Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, và Phật, nhưng vị
Phật ấy vẫn dùng A Lại Da. A Lại Da là ǵ? A Lại
Da là khởi tâm động niệm. Ngài không có phân biệt
và chấp trước, nhưng có khởi tâm động niệm;
v́ thế, Ngài là vọng tâm, chưa phải là chân tâm. Hễ
phát tâm này, thưa quư vị, quư vị là Sơ Trụ Bồ
Tát trong Viên Giáo, quư vị bèn thành Phật, chân tâm mà! Dùng chân
tâm là Phật, dùng vọng tâm là mười pháp giới. Tứ
thánh pháp giới trong mười pháp giới dùng vọng tâm
chánh đáng, v́ luôn luôn tiếp nhận giáo huấn của Phật,
Bồ Tát, luôn y giáo tu hành, nên sử dụng vọng tâm chánh
đáng. Lục đạo dùng vọng tâm tà vạy, chẳng
chánh; Kiến Tư phiền năo trong lục đạo chướng
ngại họ. V́ vậy, trong tứ thánh có phân biệt, nhưng
không có chấp trước, có Trần Sa phiền năo, nhưng
không có Kiến Tư phiền năo, thoát ly lục đạo
luân hồi. Chí thành tâm chẳng dễ dàng!
“Hai là thâm tâm”, thâm tâm là Tự Thụ Dụng; đối
với cuộc sống, công việc, đăi người, tiếp
vật của chính ḿnh, phải dùng tâm nào? Dùng thâm tâm. Thâm
tâm là ǵ? Chúng ta dùng năm chữ “thanh
tịnh b́nh đẳng giác” trong tựa đề của
kinh này. Hơn hai mươi năm trước, tôi giảng
kinh này tại Mỹ, khi tôi giảng Bồ Đề tâm theo
cách như vậy, mọi người dễ hiểu. Tôi thêm
một chữ Chánh vào Giác, thành Chánh Giác. Tôi dùng mười
chữ, chân thành là chí thành tâm, chân thành; thâm tâm là thanh tịnh,
b́nh đẳng, chánh giác; c̣n Tha Thụ Dụng th́ sao? Tha Thụ
Dụng là tâm từ bi, ở đây nói là “hồi hướng
phát nguyện tâm”. Đem hết thảy công đức do chính
ḿnh đă tu, đă học, hồi hướng cho pháp giới
chúng sanh, phát nguyện cầu sanh thế giới Cực Lạc,
từ bi tới cùng cực. Đấy là nhiếp hết
thảy chúng sanh văng sanh Phật quốc, từ bi tới cùng
cực! Chưa văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế
giới th́ tâm từ bi chẳng viên măn, v́ sao? Đời sau
họ vẫn phải luân hồi trong lục đạo! Đời
này, quư vị yêu thương, che chở họ, giúp đỡ
họ ra sao đi nữa, đời sau họ vẫn phải
luân hồi. Đức Phật giúp đỡ chúng sanh bèn giúp
đến tột cùng, thật sự giúp kẻ khác về đến
nhà, chẳng thể làm nửa vời, trong một đời
phải đạt tới viên măn, quư vị nhất định
phải khuyên dạy kẻ ấy niệm Phật sanh Tịnh
Độ. Chính quư vị nhất định phải là một
tấm gương vô cùng tốt đẹp, khiến cho kẻ
ấy sau khi trông thấy sẽ thật sự sanh tâm cảm
động, thật sự có thể buông xuống vạn
duyên, văng sanh thế giới Cực Lạc, thân cận A Di
Đà Phật, tới thế giới Cực Lạc thành tựu
hết thảy Phật pháp. Nơi ấy là một ngôi trường
tốt đẹp; sanh về thế giới Cực Lạc
sẽ vô lượng thọ, có thời gian [lâu dài] ấy!
T́m chẳng ra nơi chốn nào học Phật tốt hơn
thế giới Cực Lạc, mười phương chư
Phật tán thán. Quư vị thấy ngay cả Tỳ Lô Giá Na Phật
trong thế giới Liên Hoa Tạng cũng tán dương Văn
Thù và Phổ Hiền đă dẫn bốn mươi mốt
địa vị Pháp Thân đại sĩ sang Tây
Phương Cực Lạc thế giới, học tập A
Di Đà Phật, tuyệt diệu! Chúng ta thấy rơ chân tướng
sự thật này, nghĩ thông suốt, sau đấy sẽ
khăng khăng một mực quy tâm Tịnh Độ, chẳng
làm điều ǵ khác nữa!
Trong các buổi giảng,
trong quá khứ, tôi đă thưa với quư vị nhiều lần,
thầy Lư ban cho tôi bản mi chú bộ kinh này. Sau khi tôi đọc
xong, sanh tâm đại hoan hỷ. Khi ấy, tôi đang giảng
kinh Hoa Nghiêm, chẳng muốn giảng nữa. Giảng kinh
Hoa Nghiêm được phân nửa, bộ Bát Thập Hoa
Nghiêm giảng được phân nửa, bộ Tứ Thập
Hoa Nghiêm giảng được phân nửa, tôi không muốn
giảng, đă nghĩ sẽ phát tâm chuyên giảng bộ
kinh này. Trước sau tôi đă giảng kinh này mười
lượt, lần này là lần thứ mười một,
chuyên tu Tịnh Độ. V́ sao sau này lại giảng kinh Hoa
Nghiêm? Tôi thưa với quư vị, là do ba người khải
thỉnh, pháp sư Khai Tâm ở Đài Loan, lăo cư sĩ Hoàng
Niệm Tổ ở Bắc Kinh, Hàn Quán Trưởng của
Hoa Tạng Đồ Thư Quán hai hôm trước khi văng
sanh, ngă bệnh nằm trong bệnh viện, đă khẩn
thiết yêu cầu, mong tôi giảng kinh Hoa Nghiêm viên măn. Do trước
đây giảng không có các thiết bị, tôi giảng Hoa Nghiêm
lần đầu tiên không chỉ chẳng thâu h́nh, mà ngay cả
thâu âm cũng không có. Bà ta hy vọng tôi có thể giảng cặn
kẽ từ đầu một lượt, khi ấy vẫn
là dùng băng video, lưu lại cho người đời
sau tham khảo. Tôi thấy bà ta bệnh rất nặng, nhằm
an ủi bà ta bèn đáp ứng; đấy là nhân duyên giảng
kinh Hoa Nghiêm lần thứ hai. Tôi di dân sang Tân Gia Ba, ở Tân
Gia Ba gần bốn năm, cư sĩ Lư Mộc Nguyên biết
chuyện này, đă thay mặt ba vị đại đức
ấy chính thức khải thỉnh. V́ vậy, kinh Hoa Nghiêm
được khai giảng tại Tân Gia Ba Cư Sĩ Lâm.
Chúng tôi giảng hơn bốn ngàn giờ, giảng được
bao nhiêu? Đại khái là giảng một phần năm
kinh Bát Thập Hoa Nghiêm, giảng rất tỉ mỉ, mọi
người rất hoan hỷ. Kinh này là Trung Bổn Hoa
Nghiêm, xét đến tiến độ (tốc độ tiến
triển) học tập của chúng ta lần này ở nơi
đây, ngày hôm nay là ngày thứ hai mươi lăm, chúng ta
học đến trang hai mươi lăm, hai giờ học
được một trang, e rằng bản Đại
Kinh Giải của lăo nhân gia cũng gần một ngàn trang,
như vậy là một ngàn lần, [tức là] một ngàn lần
hai giờ. Phương pháp học tập này có thụ dụng,
càng cặn kẽ, càng hoan hỷ, đúng là pháp hỷ sung
măn, chúng tôi vẫn muốn tăng nhanh tiến độ hơn
một chút. V́ thế, đối với ba thứ tâm này, chúng
tôi dùng văn tự đơn giản dễ hiểu nhất
để mọi người xem đến sẽ rất
dễ hiểu. Chân thành, thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh giác,
từ bi, phải thật sự phát những tâm ấy. Dùng
những tâm ấy cầu sanh Tây Phương Cực Lạc
thế giới, quyết định được văng
sanh. Đầy đủ ba tâm, ắt sanh về cơi ấy!
“Phát thử
tam tâm, diệc tức phát Bồ Đề tâm dă. Hựu Mật Tông tối
trọng phát đại Bồ Đề tâm” (Phát ba tâm ấy,
cũng chính là phát Bồ Đề tâm. Lại nữa, Mật
Tông coi trọng phát đại Bồ Đề tâm nhất).
Hoàng lăo cư sĩ từng tham Thiền, học Mật, cụ
là Kim Cang Thượng Sư trong Mật Tông, Hiển Mật
viên dung, thông Tông, thông Giáo, là một vị trưởng giả
đại đức hiếm có. “Kỳ giáo điển Bồ Đề Tâm Nghĩa
vân: Bồ Đề chi tâm, thành Phật chi bổn, đại
sự nhân duyên mạc quá ư thử” (Giáo điển Bồ
Đề Tâm Nghĩa của họ có nói: “Tâm Bồ Đề
là cội rễ thành Phật, đại sự nhân duyên không
có ǵ hơn điều này”), mười sáu chữ ấy nói
lên tánh trọng yếu của Bồ Đề tâm. Bồ
Đề là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Hán có nghĩa
là Giác, “tâm Bồ Đề là giác
tâm” tức là như trong tựa đề kinh đă nói “thanh tịnh b́nh đẳng giác”.
Tôi thường thưa tŕnh cùng quư vị, mà cũng nhắc
nhở mọi người, tâm thanh tịnh là A La Hán, tâm b́nh
đẳng là Bồ Tát, giác tâm là Phật, đức Phật
đă giác ngộ, giác do đâu mà có? Giác do b́nh đẳng mà
có, b́nh đẳng là tam-muội. Tŕ giới sẽ có thể
đắc thanh tịnh tâm, nhân Giới đắc Định,
Định là tam-muội. Đắc tam-muội, tâm b́nh
đẳng hiện tiền, định tới một mức
độ nhất định sẽ tự nhiên khai ngộ.
Giác là khai ngộ, đại triệt đại ngộ,
minh tâm kiến tánh, đó là căn bản để thành Phật,
là đại sự nhân duyên không ǵ hơn được! Đó
là nói rơ chúng ta học Phật th́ học Phật là một đại
sự nhân duyên, v́ sao? Trở về tự tánh. Chúng sanh mê mất
tự tánh, đọa lạc trong mười pháp giới, đọa
lạc trong lục đạo luân hồi, khởi tâm động
niệm, ngôn ngữ và tạo tác hoàn toàn trái nghịch Tánh
Đức, cho nên chịu khổ chịu nạn. Nói theo giáo
nghĩa Đại Thừa, tai nạn do đâu mà có? Tâm hạnh
bất thiện. V́ sao? Học đă nhiều năm như
vậy, tâm quư vị đều hiểu khá rơ ràng: “Hết thảy các pháp sanh từ
tâm tưởng”. Kiên định thiện tâm, thiện
nguyện, hoàn cảnh cư trụ của chúng ta sẽ biến
thành đại địa cứng chắc, sẽ chẳng
có tai nạn, động đất, đất đá truồi!
Hôm trước, chúng tôi xem một bản tin, tôi c̣n xem h́nh
chụp, dường như ở Đài Loan bị núi lở,
cả ngọn núi sụp xuống, cây cối mọc trên núi
vẫn c̣n nguyên, ở chính giữa, đột nhiên mặt đất
sụp nát, trước nay chưa hề thấy hiện tượng
này, chẳng hề thấy! Nói theo Phật pháp, đấy
là cái nhân ǵ? Tâm hạnh của chúng ta bất thiện cảm
vời đại địa lỏng lẻo, lay động,
chẳng ổn định. Có đúng hay không? Đúng vậy!
Nay ta suy nghĩ, có mấy
ai định tâm? Tâm đều chẳng định, có thể
nói là “tâm hoảng, ư loạn”, đại chúng trong xă hội
hiện thời đều là như vậy, chẳng có cảm
giác an toàn. Không giống như người thuở trước,
trước đây ḷng người an định, tâm họ
an định ở nơi đâu? Định tại luân lư,
đạo đức. Bởi lẽ giáo dục thuở trước
nhằm dạy vun bồi vững vàng căn bản, dạy
quư vị định tại hiếu đễ, định
tại Ngũ Luân, định tại Ngũ Thường,
định tại Tứ Duy, Bát Đức, suốt đời
khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo tác, cuộc
sống đều tốt đẹp, làm việc cũng tốt
đẹp, đăi người tiếp vật luôn có thường
quy (quy củ thường hằng), chẳng vượt
quy củ, nên tâm họ định. Hiện thời chẳng
c̣n nữa, hiện thời tâm bất định, không có cảm
giác an toàn, nên đại địa lỏng lẻo, đại
địa cũng chẳng định, giải thích chuyện
này theo giáo pháp Đại Thừa sẽ thấy thông suốt.
Nếu chúng ta chẳng thể nghiêm túc học tập giáo huấn
của thánh hiền ḥng định cái tâm, những chuyện
này (thiên tai) sẽ thường xuyên nẩy sanh, càng ngày càng
nhiều, phiền toái lắm! Có ngăn ngừa, cũng chẳng
thể ngăn ngừa xiết! Quư vị thấy trong hai năm
qua, số lần động đất nhiều hơn quá
khứ quá lớn. Xét trên toàn thế giới, mỗi tháng đều
có vài lần, chẳng cố định ở một nơi
nào cả! Số lần xảy ra càng ngày càng nhiều, tai hại
ngày càng nghiêm trọng. Hăy nhớ “hết
thảy các pháp sanh từ tâm tưởng”, đức Phật
nói câu này quá hay! Tâm chúng ta suy tưởng chuyện ǵ? Phải
thường nghĩ đến giáo huấn, luân lư, đạo
đức của tổ tông, thường nghĩ đến
giáo huấn của Phật. Đức Phật bảo chúng
ta hăy “phát Bồ Đề tâm, nhất
hướng chuyên niệm”, tâm định chắc nơi
thế giới Cực Lạc, tâm định chắc nơi
A Di Đà Phật. Tâm chúng ta đă định, núi, sông, đại
địa cũng được củng cố theo, sẽ
chẳng xuất hiện vấn đề. Do vậy, phải
định chắc nơi phát Bồ Đề tâm. Chúng ta vẫn
chưa thể thực hiện tâm chân thành, v́ sao? Nếu làm
được, quư vị sẽ vượt thoát mười
pháp giới, thành Phật rồi! Nhưng chúng ta phải hết
sức nghiêm túc học tập tâm thanh tịnh, tâm b́nh đẳng,
học trong cuộc sống hằng ngày.
Phần trước đă giảng rất
hay, Văng Sanh Luận dạy chúng ta học vô nhiễm thanh tịnh
tâm. Biết những ǵ là ô nhiễm, chúng ta xa ĺa ô nhiễm.
Phải nhớ: Tự tư tự lợi là ô nhiễm, tiếng
tăm, lợi dưỡng là ô nhiễm, hưởng thụ
ngũ dục lục trần là ô nhiễm, tham, sân, si, mạn
là ô nhiễm. Ô nhiễm nhiều quá, rất nhiều! Quư vị
phải có huệ nhăn, thấy rơ rệt, phân định rơ
ràng, xa ĺa hết thảy ô nhiễm, trở về tâm thanh tịnh.
Sau khi đạt được tâm thanh tịnh, lại tiến
thêm bước nữa là tu tâm b́nh đẳng, tâm b́nh đẳng
học từ nơi đâu? Học từ khiêm ty, tôi chẳng
nói khiêm hư, mà là khiêm ty. Ngay cả kinh Mân Côi của Thiên
Chúa giáo, đoạn thứ nhất dạy con người hăy
học theo đức khiêm ty của Đức Mẹ Maria.
Tại Trung Quốc, câu đầu tiên trong sách Lễ Kư là “Khúc Lễ viết: Vô bất kính”
(Khúc Lễ nói: “Không ǵ chẳng kính”). Theo Lễ Kư, tinh thần
của lễ là ǵ? Tự nhún ḿnh, đề cao người
khác, chính ḿnh khiêm ty, tôn trọng người khác, đó là lễ,
là căn bản của lễ. Quyết định chẳng
ngạo nghễ, ngă mạn! Ngạo nghễ, ngă mạn sẽ
cảm vời ǵ? Động đất. Chúng ta bèn hiểu:
Nếu chúng ta tự nhún ḿnh, tôn trọng người khác, nơi
chúng ta ở sẽ chẳng bị động đất.
Chúng ta phải tin tưởng Phật và lời đức
Phật nói, nếu không tin sẽ chẳng có cách nào hết!
Nhất định phải tin tưởng, quyết định
chớ hoài nghi, sẽ phát sanh hiệu quả. Nếu quư vị
có kiến thức giống như những người b́nh
phàm: “Phật là mê tín, không có căn cứ khoa học” sẽ
rắc rối to! Tai nạn hiện tiền, nhưng quư vị
như thế nào? Chẳng tin tưởng!
Chúng ta đọc đoạn
tiếp theo: “Hựu Bồ
Đề Tâm Luận vân: Thử Bồ Đề tâm,
năng bao tàng nhất thiết chư Phật công đức
pháp cố. Nhược tu chứng xuất hiện, tắc
vi nhất thiết đạo sư. Nhược quy bổn,
tắc thị Mật Nghiêm độ, bất khởi ư
tọa, năng thành nhất thiết Phật sự” (Lại
nữa, Bồ Đề Tâm Luận nói: “Tâm Bồ Đề
này có thể chứa đựng pháp công đức của hết
thảy chư Phật. Nếu tu chứng xuất hiện,
sẽ là đạo sư của hết thảy. Nếu trở
về gốc sẽ là cơi Mật Nghiêm, chẳng rời khỏi
ṭa mà có thể thành tựu hết thảy Phật sự”).
Đây là một đoạn trích từ Bồ Đề Tâm
Luận, từ đây cho đến cuối đều là
những điều được nói trong Bồ Đề
Tâm Luận. Bồ Đề tâm có thể “bao tàng” (Bao (包) là bao dung, Tàng (藏) là chứa đựng) pháp công đức của hết
thảy chư Phật, có nghĩa là tự tánh vốn sẵn
đủ hết thảy trí huệ và đức tướng,
có thể sanh ra vạn pháp, câu này có ư nghĩa như vậy
đó. [Bồ Đề Tâm Luận đă] hiển thị vạn
pháp từ đâu sanh ra? Sanh từ Bồ Đề tâm, đúng
hay không? Đúng vậy! Ư nghĩa này quá sâu. Thể của tự
tánh là Bồ Đề tâm, tự tánh có thể sanh ra vạn
pháp. Huệ Năng đại sư kiến tánh đă nói năm
câu để h́nh dung Bồ Đề tâm, Ngài nói: “Hà kỳ tự tánh, bổn tự thanh tịnh” (nào ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh),
chân tâm của chúng ta vĩnh viễn thanh tịnh, chưa hề
bị ô nhiễm. Ô nhiễm là A Lại Da [bị ô nhiễm],
nó là vọng tâm, chẳng phải là chân tâm; trước nay
chân tâm chưa hề bị ô nhiễm! Bất sanh, bất
diệt, “bổn bất sanh diệt”
(vốn chẳng sanh diệt), “bổn
tự cụ túc” (vốn tự trọn đủ), trong
câu này có rất nhiều ư, vốn tự trọn đủ
th́ điều thứ nhất là ǵ? Trí huệ là bậc nhất,
tức là như trong kinh Hoa Nghiêm đức Phật đă
nói: “Hết thảy chúng sanh đều có trí huệ và đức
tướng của Như Lai”, trí huệ là bậc nhất.
Trí huệ là ǵ? Trí huệ là Bồ Đề tâm, giác tâm, Bổn
Giác. Khởi Tín Luận giảng: “Bổn Giác vốn có, bất giác vốn không”, bất
giác là A Lại Da, là vọng tâm. Bất giác vốn không, Bổn
Giác vốn có. Giác tâm là Bồ Đề tâm, giác tâm trọn đủ
vô lượng đức năng, vô lượng tướng
hảo; nên nó có thể sanh ra vạn
pháp. Gặp duyên bèn hiện vạn pháp, duyên ấy là ǵ? Nhất
niệm động, nay chúng ta nói là “dao động”, một
niệm vô cùng vi tế ấy dao động!
Sự
dao động ấy không có nhân, sau khi dao động bèn có
nhân, có quả; chỉ có cái đầu tiên [là không có nhân],
nên gọi là “vô thỉ vô minh”, thứ ấy không có nhân! Nếu
quư vị muốn truy cứu cái nhân của nó, tức là dấy
lên phân biệt, khởi lên chấp trước, quư vị sẽ
càng mê sâu hơn, trật rồi! Sự dao động thứ
nhất chẳng có nhân. Đức Phật giảng rất
hay, v́ sao không có nhân? Vô thỉ, không có khởi đầu, vô
thỉ đương nhiên sẽ chẳng diệt. Hễ
có khởi đầu sẽ có kết thúc, nó chẳng có khởi
đầu! V́ thế, câu nói này đă nói toạc ư nghĩa, đă
không có bắt đầu th́ quư vị chẳng cần phải
hỏi, chẳng cần phải nghĩ tới nó. V́ thế,
chẳng thể nghĩ bàn! Hễ quư vị vừa nghĩ hoặc
nói bèn trật lất rồi, mà cũng chẳng
biết trật đến đâu nữa! Lời này nói thật
hay! Đấy là ngôn ngữ thiện xảo. Nó có thể chứa
đựng, vốn ẩn chứa sẵn; câu nói thứ ba của
Huệ Năng đại sư, tức câu “nào ngờ tự tánh vốn tự trọn đủ”
mang ư nghĩa này! Ở đây nói “pháp
công đức của hết thảy chư Phật”, nó
chính là “trí huệ và đức
tướng” như trong kinh Hoa Nghiêm đă nói. Trong tựa
đề kinh này, trí huệ là “Đại Thừa”, đức
là “Vô Lượng Thọ”, tướng là “trang nghiêm”, toàn bộ
được bao gồm trong tựa đề kinh. Thế
giới Cực Lạc là cái được hiện, “nhược tu chứng xuất
hiện, tắc vi nhất thiết đạo sư” (nếu
tu chứng xuất hiện, sẽ là đạo sư của
hết thảy), A Di Đà Phật tu chứng xuất hiện,
chúng ta thấy Ngài năm kiếp tu hành, đă tu thành công! Thế
giới Cực Lạc bèn xuất hiện, thế giới Cực
Lạc vẫn sanh từ tâm tưởng, có thật, chẳng
giả! Ngẫu Ích đại sư có một ngoại hiệu
là Tây Hữu Đạo Nhân, Tây là Tây Phương, [ngoại
hiệu ấy] nghĩa là ǵ? Tây Phương có thật! Ngài
chứng minh với mọi người, cơi Tây Phương
có thật, nên tự xưng là Tây Hữu Đạo Nhân. A
Di Đà Phật tu chứng xuất hiện, bèn xuất hiện
Tây Phương Cực Lạc thế giới, Ngài trở
thành đạo sư của hết thảy đại
chúng văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới.
Đạo Sư là Phật, chỉ dạy đại chúng tu
hành chứng quả. Tu hành trong thế giới Cực Lạc
vẫn là tiến lên cao hơn từng cấp một, nhưng
tốc độ nhanh chóng, chẳng giống như các thế
giới phương khác, thời gian tu hành rất dài, v́ sao?
Chướng duyên quá nhiều, chướng ngại quá nhiều,
hoàn cảnh tu hành chẳng tốt đẹp, thọ mạng
ngắn ngủi, c̣n chưa thành công mà thọ mạng đă
hết rồi! Chuyển thế trở lại, tối thiểu
bỏ phí thời gian mười mấy, hai mươi năm,
hễ lầm lỡ bèn bị thoái chuyển, thoái chuyển
với một mức độ lớn!
Người trong Tây Phương Cực
Lạc thế giới chẳng có sanh tử, vô lượng
thọ. Hơn nữa, họ chẳng lăng phí, bỏ lỡ
thời gian một phút, một giây nào! Đấy là do bổn
nguyện và oai thần của A Di Đà Phật gia tŕ, niệm
niệm đều tiến bộ. Hoàn cảnh tu học ấy
t́m đâu ra? Trong các cơi Phật ở mười
phương đều chẳng có! “Nhược quy bổn, tắc thị Mật Nghiêm độ”
(nếu trở về gốc, sẽ là cơi Mật Nghiêm).
Mật là ǵ? Chẳng phải là bí mật. Nếu bí mật
chẳng thể nói với ai th́ chưa hề là chuyện tốt.
“Mật” (密) trong Phật pháp là “thâm mật”, tức là Lư quá sâu, Lư
và Sự vô cùng sâu mầu. “Nghiêm”
(嚴) là trang nghiêm. Cơi Mật Nghiêm là ǵ? Chính là Tây
Phương Cực Lạc thế giới, thế giới
Hoa Tạng. Nói rộng, cơi Thật Báo Trang Nghiêm của hết
thảy chư Phật đều là cơi Mật Nghiêm; nhằm
phân biệt với mười pháp giới, các cơi thuộc
mười pháp giới chẳng kiên cố như vậy. Cơi
Mật Nghiêm vĩnh viễn chẳng có tai biến. Nó được
thành tựu như thế nào? Chúng ta phải nhớ: Bồ
Đề tâm thành tựu. Chúng tôi nhắc lại câu này một
lượt, mọi người sẽ khắc sâu ấn
tượng, “chân thành, thanh tịnh,
b́nh đẳng, chánh giác, từ bi”. Quư vị có thể làm
được mười chữ ấy, sẽ “tu chứng xuất hiện, làm
đạo sư của hết thảy”, sẽ thấy
A Di Đà Phật, v́ sao? Chính quư vị là A Di Đà Phật,
thấy thế giới Cực Lạc, cơi Mật Nghiêm là thế
giới Cực Lạc. Thân là thân kim cang bất hoại, tức
chánh báo; cơi nước là y báo, trang nghiêm khôn sánh! Tây
Phương Cực Lạc thế giới được
gọi là [cơi do] thất bảo thành tựu, “thất” chẳng phải là
con số, mà nhằm biểu thị sự viên măn. “Thất” phải hiểu như
thế nào? Đông, Nam, Tây, Bắc, trên, dưới, chính giữa,
dùng ư nghĩa này, đó là ư nghĩa viên măn. Nói cách khác, do vô
lượng vô biên trân bảo hợp thành. Đó là ǵ? Ḷng
tin kiên định thành tựu. Chúng sanh trong thế gian này
mê mất tự tánh, hiện thời, chúng sanh mang tâm ǵ nặng
nhất? Tâm nghi nặng nhất! V́ thế, hết thảy
đều lỏng lẻo, phiền phức bèn xảy ra.
Đối với chuyện ǵ cũng đều hoài nghi, chuyện
này thật sự phiền phức, chẳng phải giả!
Thứ ǵ cũng đều hoài nghi, nghiêm trọng nhất
là hoài nghi thánh giáo, hoài nghi giáo huấn của tổ tông. Ngạn
ngữ Trung Quốc có câu: “Bất
thính lăo nhân ngôn, ngật khuy tại nhăn tiền” (chẳng
nghe lời người già, thua thiệt ngay trước mắt).
Tổ tông yêu thương, quan tâm người đời
sau, chẳng lừa gạt quư vị. Phật, Bồ Tát yêu
thương, quan tâm chúng sanh, cũng chẳng lừa gạt
quư vị. Quư vị không tin, sẽ chẳng có phước
báo. Hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng ta học tập
tới chỗ này!
Tập 26
Chư vị pháp
sư, chư vị đồng học, xin hăy ngồi xuống.
Xin xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải,
trang hai mươi lăm, hàng thứ tư từ dưới
đếm lên, xem từ chữ cuối cùng.
“Hựu Tán Bồ Đề Tâm viết:
Nhược nhân cầu Phật huệ, thông đạt Bồ
Đề tâm, phụ mẫu sở sanh thân, tốc chứng
Đại Giác vị” (Lại nữa, bài Tán Bồ Đề
Tâm có đoạn: “Nếu ai cầu Phật huệ, thông đạt
Bồ Đề tâm, từ thân cha mẹ sanh, mau chứng ngôi
Đại Giác”). Trong những điều được
giảng bởi bốn câu kệ này, câu đầu tiên nói về
sự học Phật, các đồng học chúng ta phải
chú ư, học Phật là học ǵ? Là cầu Phật huệ;
Phật huệ ở đâu? Phật huệ vốn sẵn
có. Tuy sẵn có, nhưng chúng ta mê mất. Cầu Phật huệ
là t́m lại trí huệ Bát Nhă sẵn có trong tự tánh, đó
gọi là “học Phật”, thật sự học Phật! Trong
Đại Kinh thời thời khắc khắc nhắc nhở
chúng ta một câu mà đức Phật đă nói rất nhiều
lần: “Một tức là hết
thảy, hết thảy tức là một”, t́m được
Phật huệ th́ toàn bộ vô lượng công đức trong
tự tánh đều t́m được. Đức Phật
thường nhắc tới trí huệ và đức tướng,
ở đây chỉ nói đại lược những điều
chánh yếu, chứ nói chi tiết sẽ chẳng thể nói
trọn! Vô lượng vô biên trí huệ và đức tướng
toàn bộ đều t́m lại được, đó là thật
sự học Phật. Quan trọng nhất trong việc cầu
Phật huệ là phát Bồ Đề tâm. Ở đây, “thông” và “đạt” đều mang ư nghĩa “phát”. “Thông” là thông suốt, trôi chảy, chẳng có chướng
ngại, “đạt” là đạt
đến. Bồ Đề tâm là ǵ? Ngày hôm qua, tôi đă thưa
cùng quư vị, “chân thành, thanh tịnh,
b́nh đẳng, chánh giác, từ bi” viên măn! Nay chúng ta t́m lại
[Bồ Đề tâm] như thế nào? Thứ nhất, tâm chúng
ta chẳng chân thành! V́ sao nói tâm chúng ta chẳng chân thành? Tâm
chúng ta có chấp trước, có phân biệt, có vọng
tưởng. Tiên sinh Tăng Quốc Phiên đă định
nghĩa chữ Thành là “nhất
niệm bất sanh thị vị Thành” (một niệm
chẳng sanh gọi là Thành). Ta có một niệm sẽ chẳng
thành, [định nghĩa ấy có cùng] một ư nghĩa với
lời đức Phật giảng trong kinh giáo. Nếu nói thông
thường rất đơn giản, th́ không khởi tâm,
không động niệm sẽ là chân tâm, khởi tâm động
niệm là vọng tâm.
V́ sao có vọng
tâm? Đức Phật nói rất hay: “Nhất niệm bất giác nhi hữu vô minh” (một
niệm bất giác bèn có vô minh). Một niệm bất giác là
vô minh, gọi là vô thỉ vô minh. Vô thỉ chẳng phải
là quá khứ quá lâu chẳng thể t́m được bèn gọi
là vô thỉ, chẳng phải là ư nghĩa ấy! Thưa quư
vị, vô thỉ là chẳng có khởi đầu, đúng vậy,
nó là nhất niệm ngay trong lúc này! Di Lặc Bồ Tát đă
nói, trong một giây, hiện thời chúng ta dùng giây làm đơn
vị, nếu một giây khảy ngón tay năm lần, sẽ
có một ngàn sáu trăm triệu niệm, một niệm
trong ấy gọi là “nhất
niệm bất giác”. Chẳng phải là chúng ta tưởng
tượng mà nói ra; chúng ta tưởng tượng th́ sẽ
chẳng biết có bao nhiêu niệm, mỗi vọng tưởng
đều dùng con số “triệu” để tính toán, một
niệm ngắn nhất trong một cái khảy ngón tay, nhưng
một cái khảy ngón tay đă trải qua ba trăm hai
mươi triệu [niệm], đức Phật nói tới
cái niệm ấy, niệm ấy vô thỉ. Niệm niệm
đều vô thỉ; do vậy, niệm niệm cũng chẳng
diệt, bất sanh, bất diệt, thật vậy! Quư vị
chẳng t́m được sự sanh diệt của nó; v́
thế, đối với vấn đề này, chúng ta thường
hiểu nó là sanh diệt đồng thời, tốc độ
quá nhanh! Không chỉ chẳng có cách nào diễn tả bằng
ngôn ngữ, mà ngay cả thức thứ sáu của chúng ta cũng
chẳng nắm bắt được [sự sanh diệt ấy].
Thức thứ sáu phân biệt nhanh lẹ nhất mà vẫn
chẳng nắm bắt được! V́ sao đức Phật
biết được ư niệm vi tế như thế là
nhất niệm bất giác? Đức Phật dạy: Từ
Bát Địa Bồ Tát trở lên đều biết! Chúng
ta bèn hiểu Bát Địa Bồ Tát có công phu định lực
ra sao, quư vị tu Thiền Định đến Bát Địa
sẽ thấy. Tâm phải thanh tịnh dường ấy
mới có thể cảm nhận được sự sanh
diệt trong dao động vô cùng vi tế ấy, khởi lên
và diệt mất có cùng ư nghĩa với sanh diệt. V́ thế,
Bát Địa Bồ Tát thấy được, Cửu Địa
thấy được, Thập Địa thấy được,
Đẳng Giác thấy được, Diệu Giác thấy
được, rất nhiều người thấy, chẳng
phải chỉ một. V́ vậy, Bồ Đề là giác
ngay trong một niệm hiện tiền, vô minh là một niệm
mê ngay trong hiện tiền. Một niệm giác sẽ bất
động; Huệ Năng đại sư đă nói rất
hay: “Nào ngờ tự tánh vốn
chẳng lay động”, đó là một niệm giác. Một
niệm mê là vọng động, là chuyển động. Vô
minh là tướng động, cho nên Nghiệp Tướng
của A Lại Da là vô minh, tức vô thỉ vô minh.
V́ vậy,
chúng ta cầu Phật huệ, nhất định phải
phát Bồ Đề tâm. Hiện tại, tâm chúng ta chẳng
thành thật, chúng ta hiểu rơ điều này, đúng là chẳng
chân thành. Chúng ta phải học theo đức Phật, học
theo Pháp Thân Bồ Tát, sử dụng chân tâm, dùng thành ư, phải
bắt đầu ngay từ bây giờ, chớ nên chờ đợi!
Hễ chờ đợi là xong luôn, phải thực hiện
ngay trong hiện tiền, xử sự, đăi người,
tiếp vật, sinh sống, làm việc đều dùng cái tâm
chân thành. Mọi người nghĩ trong xă hội này, nếu
dùng cái tâm chân thành sẽ rất thiệt tḥi, người
khác lừa gạt quư vị, nhưng quư vị chẳng lừa
người khác [sẽ bị thiệt tḥi]. Quư vị phải
giác ngộ, kẻ khác lừa ta, ta cũng lừa hắn, [như
vậy chính là] người khác tạo nghiệp lục
đạo, ta cũng tạo nghiệp lục đạo,
người khác tạo nghiệp tam đồ, ta cũng tạo
nghiệp tam đồ, chẳng phải là ư nghĩa ấy
hay sao? Nếu quư vị muốn thoát ly tam đồ, thoát ly
mười pháp giới, hăy học theo Phật, Bồ Tát hành
chân thật, chẳng giả. Điều này rất trọng
yếu, đó là giác ngộ! Quư vị nhất niệm giác, sẽ chẳng theo sóng đuổi
sóng, chẳng tạo nghiệp trong biển khổ lục
đạo, chẳng tạo nữa, sử dụng tâm chân
thành. Tâm chân thành xét theo Tự Thụ Dụng là tâm thanh tịnh,
quả thật chẳng c̣n nhiễm dơ nữa, điều
này cần phải có công phu. V́ sao? Trong thế gian này, đặc
biệt là trong xă hội hiện tiền, ngũ dục lục
trần luôn dụ dỗ, mê hoặc quư vị, tài, sắc,
tiếng tăm, ăn uống, ngủ nghỉ, thứ ǵ cũng
đều dụ dỗ, mê hoặc, mà quư vị có thể chẳng
bị lay động th́ mới đắc tâm thanh tịnh.
Nếu quư vị bị chúng lay động, tâm thanh tịnh
sẽ mất đi ngay lập tức, Bồ Đề sẽ
chẳng thông suốt, con đường ấy chẳng thông
suốt. Tâm thanh tịnh th́ con đường ấy sẽ
thông suốt. Sau khi đắc tâm thanh tịnh, nếu c̣n có
thể tiến thêm bước nữa, đắc tâm b́nh
đẳng, b́nh đẳng là Phật tâm. [Phật nói ở
đây chính là địa vị] Phật trong mười
pháp giới, Phật tâm. Tiến cao hơn bước nữa
là vị Phật thật sự, chẳng phải là giả
Phật, Bồ Đề tâm bèn thông suốt, đạt tới
viên măn.
Do vậy,
biết tâm b́nh đẳng gần với Bồ Đề
tâm nhất. Quư vị xem tựa đề kinh này, sau “thanh tịnh,
b́nh đẳng” là “giác”, b́nh đẳng mới có thể giác,
bất b́nh đẳng sẽ chẳng giác. Phải triệt
để diệt sạch tập khí ngạo mạn th́ mới
b́nh đẳng. Từ chỗ này, quư vị có thể hiểu
rơ v́ sao phải học khiêm ty? V́ sao ta phải khiêm ty đối
với người khác, khiêm ty đối với hết thảy
chúng sanh? Vốn là để thông với Bồ Đề
tâm. Mảy may tập khí kiêu mạn nào sẽ đều chướng
ngại Bồ Đề tâm, chẳng thông suốt. Quư vị
nói xem: Khiêm ty có ích cho ai? Có đại lợi ích cho chính ḿnh!
Chẳng phải là đối với người khác, mà sự
thật là thông suốt Bồ Đề tâm của chính ḿnh!
Quư vị nói xem chuyện này có trọng yếu lắm hay chăng?
Thông đạt Bồ Đề tâm phải thực hiện
bằng khiêm ty; khiêm ty đối với người khác,
khiêm ty đối với hết thảy động vật,
đối với muỗi, trùng, kiến đều khiêm ty,
chúng ta gọi chúng nó là “Bồ Tát kiến, Bồ Tát muỗi”,
cung kính từ nội tâm đối với chúng nó, chúng nó sẽ
cảm nhận được! Hiện thời, kể như
chúng ta đă hiểu rơ, học sách Hoàn Nguyên Quán, chúng ta biết
mỗi vi trần, mỗi sợi lông, hay nói theo thuật ngữ
khoa học hiện tại, mỗi tế bào, mỗi hạt
(hạt cơ bản), đều do Ngũ Uẩn Sắc,
Thọ, Tưởng, Hành, Thức hiện ra. Nói cách khác, nó
có thể tích, tuy rất nhỏ, nhục nhăn của chúng ta
chẳng thể thấy được! Nó có Thọ, Tưởng,
Hành, Thức, những thứ này là A Lại Da, nó có thể
biến hiện vạn pháp, hết thảy vạn pháp
đều do những hạt cơ bản này hợp thành. Có
khoa học gia nói những hạt cơ bản này là một
hiện tượng dao động. Chẳng sai! Quả thật
là hiện tượng dao động, một niệm bất
giác là dao động, từ dao động mà có, nói chẳng
sai tí nào! Hễ chẳng động bèn chẳng có, Ngũ Uẩn
chẳng có! V́ thế, Bát Nhă hiện tiền, chiếu kiến
Ngũ Uẩn đều Không; nay chúng ta biết Ngũ Uẩn
là hạt cơ bản, nhỏ hơn tế bào!
Thật sự có thể
thông đạt th́ “phụ mẫu
sở sanh thân, tốc chứng Đại Giác vị” (thân
do cha mẹ sanh, mau chứng ngôi Đại Giác), hai câu này nói
đến sự chứng đắc Phật quả viên
măn rốt ráo trong một đời. Chỉ cần quư vị
dùng Bồ Đề tâm, chắc chắn có thể chứng
đắc. Pháp môn Tịnh Tông này bảo đảm quư vị
thành tựu trong một đời, chẳng thể nghĩ
bàn! V́ thế, thật sự tu hành, công phu chân thật, trong
cuộc sống chẳng c̣n khởi tâm động niệm
nữa. Trong công việc, trong đăi người, tiếp vật,
trong hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian,
chẳng khởi tâm, không động niệm, bèn thành Phật
viên măn! Chuyện này chưa thể làm được! Chưa
thể không khởi tâm, không động niệm, khó quá! Chẳng
phải là người tầm thường [mà ḥng làm
được]; Phật pháp nói [người có thể làm được
như vậy] là bậc thượng thượng căn. Thích
Ca Mâu Ni Phật đă thị hiện [như thế]. Tại
Trung Quốc, vào đời Đường, Huệ Năng
đại sư cũng biểu diễn, bậc thượng
thượng căn đấy! Kẻ căn cơ trung hạ,
tập khí phiền năo nặng nề huân tu từ vô thỉ
kiếp. Chúng ta gặp duyên, đối với chuyện một
người có thể tu hành thành tựu trong một đời
hay không, Thiện Đạo đại sư đă nói một
câu rất hay: “Tổng tại
ngộ duyên bất đồng” (nói chung là do gặp duyên
sai khác). Duyên là cơ hội! Nếu quư vị gặp được
cơ duyên tốt đẹp, sẽ có thể thành tựu, sẽ
quay đầu trong một đời này! Gặp gỡ
thánh giáo, gặp Đại Thừa, gặp Tịnh Độ,
duyên đấy! Gặp gỡ thiện tri thức tốt lành,
tức là gặp thầy, thiện hữu và đồng học
tốt lành, gặp hoàn cảnh tu học tốt đẹp,
thật sự khó! Quả thật chẳng dễ dàng! Những
điều ấy quư vị đều gặp, chắc chắn
sẽ thành tựu trong một đời này, duyên trọn
đủ, thiện căn trọn đủ, phước
đức trọn đủ. Thiện căn là có thể
tin, có thể hiểu; phước đức là thật sự
làm. Vậy th́ quư vị sẽ nhanh chóng chứng địa
vị Đại Giác.
Đọc
tiếp đoạn kế đó: “Hựu chư kinh chi vương Hoa Nghiêm kinh vân: Vong
thất Bồ Đề tâm, tu chư thiện pháp, thị
danh ma nghiệp” (Lại nữa, vua của các kinh là kinh Hoa
Nghiêm có dạy: “Tu các pháp lành mà quên mất Bồ Đề
tâm th́ gọi là ma nghiệp”). Kinh Hoa Nghiêm nói như thế,
chúng ta đọc qua, nhưng tu hành bèn quên tuốt Bồ Đề
tâm, thật sự quên mất ư? Thật sự! Thậm
chí quư vị học tập kinh giáo, giảng kinh, thuyết
pháp trên giảng đài, quên sạch Bồ Đề tâm. Cớ
sao quên sạch? Chẳng phải là tâm chân thành, vẫn xen tạp
tiếng tăm, lợi dưỡng, vẫn xen tạp tự
tư tự lợi, quên sạch Bồ Đề tâm, quên sạch
sành sanh! Nói cách khác, hễ c̣n có vọng tưởng, phân biệt,
chấp trước, sẽ chẳng có Bồ Đề tâm!
Đó là ǵ? Đó là tâm lục đạo chúng sanh, là tâm luân
hồi. Tâm luân hồi giảng kinh cũng là nghiệp luân hồi,
bất quá nó là thiện nghiệp trong nghiệp luân hồi,
quả báo trong tương lai là tam thiện đạo, không
thoát khỏi lục đạo luân hồi, [v́ vậy, nói nó]
là ma nghiệp! Do đó, tu hết thảy các thiện pháp,
tu Phật pháp, đều gọi là ma nghiệp, là phước
báo trong lục đạo. Quư vị tu đến Sắc Giới
Thiên, tu tới Vô Sắc Giới Thiên, vẫn chưa được!
Tuổi thọ trong Vô Sắc Giới Thiên đă hết, vẫn
phải đọa lạc, ngạn ngữ bảo là “trèo cao, ngă đau”. Trèo tới
Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Thiên, sau khi đă chết,
trong kinh đức Phật thường dạy, thường
là đọa xuống A Tỳ địa ngục. V́ sao? Tín
tâm của người ấy dao động! Người ấy
lầm tưởng Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Thiên
là Đại Bát Niết Bàn do chư Phật đă chứng
đắc, ngỡ là đạt tới cảnh giới ấy
th́ chính ḿnh đă chứng đắc Đại Bát Niết
Bàn, bất sanh, bất diệt! Tới khi công phu định
lực mất đi, thọ mạng như trong kinh đă nói
cũng chính là công phu định lực của vị trời
ấy, công phu định lực của vị ấy tồn
tại tám vạn đại kiếp. Khi đă hết tám vạn
đại kiếp, Định mất đi, khi mất đi,
vị ấy bèn nghĩ: “Trước kia, chư Phật, Bồ
Tát đă dối gạt ta, chứng đắc Đại Niết
Bàn sẽ chẳng sanh, chẳng diệt. Cớ sao nay phiền
năo của ta lại hiện hành?” Do một niệm ấy bèn
tạo tội nghiệp A Tỳ địa ngục, hủy
báng thánh hiền, báng Phật, báng Pháp, báng Tăng, do tội
nghiệp ấy bèn đọa địa ngục, quư vị
nói có đáng sợ lắm hay không? Vị ấy chẳng biết
chính ḿnh lầm lỗi, lại đổ thừa Tam Bảo.
“Phát tâm chi yếu, bất ngôn
khả dụ” (Tầm trọng yếu của phát tâm, chẳng
thể dùng lời lẽ nào tỷ dụ được),
chúng ta nhất định phải nhớ lời này!
Chúng ta lại xem đoạn
kế tiếp: “Nguyên Hiểu
sư đẳng” (các vị như ngài Nguyên Hiểu), vị
này đă nói trong phần trước, “dĩ phát Bồ Đề tâm vi chánh nhân, niệm Phật
vi trợ nhân” (các vị như sư Nguyên Hiểu cho rằng:
Phát Bồ Đề tâm là chánh nhân, niệm Phật là trợ
nhân). Trong Yếu Giải, Ngẫu Ích đại sư đă
tuân theo ư nghĩa này! Trong bản Yếu Giải chú giải
kinh Di Đà của Ngẫu Ích đại sư, [Ngài đă
nói] “có thể văng sanh hay không là do tín nguyện có hay không quyết
định”. Quư vị thấy [tín nguyện là phát Bồ
Đề tâm] là chánh nhân, c̣n công phu niệm Phật sâu hay cạn
sẽ quyết định phẩm vị cao hay thấp sau
khi văng sanh Cực Lạc. Có thể văng sanh hay không do tín nguyện
quyết định; phẩm vị cao thấp do công phu niệm
Phật của quư vị [quyết định]. Ngẫu Ích
đại sư cũng giảng cùng một ư nghĩa với
các vị như ngài Nguyên Hiểu. “Ngă quốc Thiện Đạo, Linh Chi dữ Nhật
Bản Tịnh Tông chư gia, tắc dĩ tŕ danh vi Chánh Hạnh,
phát tâm vi Trợ Hạnh” (Các vị như Thiện Đạo,
Linh Chi của nước ta và các vị trong Tịnh Tông Nhật
Bản coi tŕ danh là Chánh Hạnh, phát tâm là Trợ Hạnh). Đấy
là “người nhân thấy là
nhân, người trí thấy là trí”, các vị tổ
sư đại đức có quan điểm khác nhau, có những
vị nghĩ tŕ danh niệm Phật là Chánh Hạnh, phát Bồ
Đề tâm là Trợ Hạnh, Chánh và Trợ phải cùng
tu. Có Chánh mà chẳng có Trợ, sẽ chẳng thể thành
công. Có Trợ mà chẳng có Chánh, cũng chẳng thể
thành công. Do vậy, Liên Tŕ đại sư dung hội; trong
Di Đà Kinh Sớ Sao, Liên Tŕ đại sư đă “ḥa hội chi viết: Hoàn dĩ
tŕ danh vi Chánh Hạnh, phục dĩ tŕ danh vi phát Bồ
Đề tâm” (bèn nói dung ḥa, tổng hợp rằng: “Vẫn
lấy tŕ danh làm Chánh Hạnh, lại coi tŕ danh là phát Bồ
Đề tâm”). Thật sự tŕ danh là phát Bồ Đề
tâm, v́ sao? Trong ấy có đạo lư, tŕ danh niệm Phật
đến nhất tâm bất loạn chẳng phải là Bồ
Đề tâm ư? Tŕ danh chưa đạt tới nhất
tâm bất loạn sẽ chẳng phải là Bồ Đề
tâm, chư vị phải biết điều này! Bồ
Đề tâm là tâm thanh tịnh, là tâm b́nh đẳng. Ta niệm
một câu A Di Đà Phật này, niệm suốt ngày từ
sáng đến tối, trong tâm là A Di Đà Phật, miệng
là A Di Đà Phật, toàn bộ những thứ khác đều
buông xuống, đó là Bồ Đề tâm. Nếu ta niệm
A Di Đà Phật, cầu sanh Tây Phương Cực Lạc
thế giới, nhưng chẳng buông những thứ khác
xuống, để chúng xen tạp vào đó, sẽ chẳng
phải là Bồ Đề tâm. Các thuyết đều có lư,
Liên Tŕ đại sư muốn dung hội, đấy là “một là hết thảy, hết
thảy là một”, pháp môn Bất Nhị, Bồ Đề
tâm và tŕ danh là một, không hai. Thật sự tŕ danh niệm
Phật, quả thật đă viên măn Bồ Đề tâm. Nếu
không, cớ sao khi người ấy văng sanh lại có thể
có tướng lành tốt đẹp ngần ấy, biết
trước lúc mất, ra đi rất tiêu sái, rất tự
tại? Do Bồ Đề tâm! Trong Sớ Sao, Liên Tŕ đại
sư đă nói: “Tắc song thủ
lưỡng gia nhi ḥa hội kỳ nghĩa dă” (dùng cả
hai thuyết để dung hội ư nghĩa).
“Kim sùng” (nay tôi đề cao), hiện thời, chúng
ta tôn trọng, “phát Bồ Đề
tâm, nhất hướng chuyên niệm vi bổn kinh chi Tông”
(phát Bồ Đề tâm, một mực chuyên niệm là Tông
của kinh này). Đấy là ghép chung phát tâm và tŕ danh lại
thành tông chỉ và nguyên tắc chỉ đạo tu học
trong kinh này. Nói cách khác, Tông ấy là [Tông của] bản kinh
bậc nhất trong Tịnh Độ Tông, mà tám chữ “phát Bồ Đề tâm, luôn luôn
chuyên niệm” cũng là nguyên tắc chỉ đạo tối
cao trong tu Tịnh Độ “Chánh
thị song thủ lưỡng gia” (tức là lấy ư kiến
của cả hai học phái), “lưỡng
gia” là hai phái, tức hai học phái xưa nay, thu nhận
chủ trương của hai học phái. “Phục hựu nhiếp quy danh hiệu, chánh dữ Liên
Tŕ đại sư chi ư tương khế” (lại c̣n
nhiếp về danh hiệu, thật sự khế hợp với
ư của Liên Tŕ đại sư). Phát tâm văng sanh, đương
nhiên phẩm vị văng sanh càng cao càng hay! Càng cao, càng hay! Đấy
là do tŕ danh, sốt sắng, thật thà niệm Phật,
phẩm vị bèn cao. Chúng ta phải hiểu rơ ràng, minh bạch
những ư nghĩa này, sẽ rất hữu ích đối với
sự tu học của chính ḿnh. “Thả
thử bát tự, triển chi tắc vi Triệt Ngộ thiền
sư chi giáo” (Vả nữa, tám chữ ấy khai triển
sẽ thành lời dạy của thiền sư Triệt Ngộ),
khai triển tám chữ ấy sẽ thành bốn câu nói của
Triệt Ngộ đại sư: “Chân vị sanh tử, phát Bồ Đề tâm, dĩ
thâm tín nguyện, tŕ Phật danh hiệu” (thật sự
v́ sanh tử, phát tâm Bồ Đề, dùng tín nguyện sâu,
tŕ danh hiệu Phật), thiền sư Triệt Ngộ nói
như thế. Lăo nhân gia niệm Phật văng sanh Tịnh
Độ, là bậc đại đức trong nhà Thiền,
quay đầu niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
Chúng ta phải ghi nhớ mười sáu chữ ấy, thật
sự v́ sanh tử, không tạo nghiệp sanh tử luân hồi
nữa, sanh tử luân hồi khổ chẳng thể nói được!
Sau khi ta thoát ly lục đạo, sẽ thành tựu trong thế
giới Cực Lạc; nói thật ra, chẳng thành tựu
cũng được! Vừa đến thế giới Cực
Lạc, ngay lập tức tới mười phương
thế giới hóa độ chúng sanh cũng được.
V́ sao? Bổn nguyện và oai thần của Phật Di
Đà gia tŕ quư vị, tuy quư vị là phàm phu, nhưng trí huệ
và đức năng bằng với Thất Địa Bồ
Tát, quư vị là A Duy Việt Trí Bồ Tát, chỉ cần thấy
A Di Đà Phật, sẽ được đăi ngộ như
A Duy Việt Trí Bồ Tát, quư vị bèn đạt được.
V́ thế, quư vị chứng đắc A Duy Việt Trí
đương nhiên là rất tốt, phổ độ
chúng sanh; [c̣n nếu] chưa chứng đắc, nhưng quư
vị có tâm đại từ bi, thấy chúng sanh quá khổ,
cũng được, quư vị ứng hóa trong lục
đạo. A Di Đà Phật và chư đại Bồ Tát
sẽ thường chiếu cố quư vị. Thật sự
chứng đắc A Duy Việt Trí trong thế giới Cực
Lạc, A Duy Việt Trí viên chứng ba món Bất Thoái, chính
là hàng Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo như trong kinh Hoa
Nghiêm [đă giảng]. Người ấy ứng hóa trong lục
đạo có bị mê hay không? Người ấy sẽ chẳng
mê, v́ sao? Đă kiến tánh, minh tâm kiến tánh th́ làm sao có thể
bị thoái chuyển cho được? Chẳng có lẽ nào!
Bồ Tát như thế nào sẽ mê? Trong
mười pháp giới, [tức là] Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ
Tát, Phật trong mười pháp giới, tứ thánh pháp giới
ứng hóa trong lục đạo sẽ bị mê khi cách ấm,
chứ Pháp Thân Bồ Tát chẳng bị. Hàng Bồ Tát trong
mười pháp giới chỉ có Vị Bất Thoái, nhưng
Hạnh bị thoái chuyển, Niệm chẳng cần phải
nói nữa; họ chỉ có Vị Bất Thoái. Đạt
được minh tâm kiến tánh, thoát ly mười pháp giới,
chứng đắc Sơ Trụ của Viên Giáo, hay Sơ
Địa trong Biệt Giáo, sẽ chẳng thoái chuyển.
Trong địa vị ấy, chư Phật Như Lai vẫn
gia tŕ người ấy, tăng tấn trí huệ và đạo
lực cho người ấy, giúp đỡ người ấy,
người ấy sẽ thành tựu công đức giáo hóa
chúng sanh trong ấy.
Tiếp
theo đó là rút gọn lại, phần trên là triển khai,
[sẽ thành] bốn câu nói của Triệt Ngộ đại
sư. “Ước chi, tắc
vi Ngẫu Ích đại sư sở xướng chi tín nguyện
tŕ danh” (rút gọn lại sẽ chính là “tín nguyện tŕ
danh” như Ngẫu Ích đại sư đề xướng).
Ngẫu Ích đại sư nói bốn chữ ấy,
đơn giản! Bốn chữ ấy được lăo
pháp sư Ấn Công, tức Ấn Quang đại sư là
vị tổ sư thứ mười ba của Tịnh
Tông chúng ta, thọ tŕ suốt đời! Quư vị đọc
Văn Sao thấy Ngài thường dạy người khác tín
nguyện tŕ danh, cầu sanh Tịnh Độ. Lăo nhân gia, truyền
tâm, truyền pháp gồm mười sáu chữ: “Đôn luân, tận phận, nhàn
tà, tồn thành, tín nguyện tŕ danh, cầu sanh Tịnh
Độ” (vẹn hết luân thường, trọn hết
bổn phận, dứt ḷng tà, giữ ḷng thành, tín nguyện
tŕ danh, cầu sanh Tịnh Độ). Suốt đời tổ
Ấn Quang hành tŕ mười sáu chữ ấy, mười
sáu chữ ấy nói rất thấu triệt. “Di Đà Yếu Giải dĩ ‘tín
nguyện tŕ danh’ vi Tông” (sách Di Đà Yếu Giải lấy
“tín nguyện tŕ danh” làm Tông). Trong phần Minh Tông Luận Dụng
của sách A Di Đà Kinh Yếu Giải, Ngẫu Ích đại
sư đă dùng “tín nguyện tŕ danh” làm Tông, v́ kinh Di Đà và
kinh này là cùng một bộ, Đại Bổn và Tiểu Bổn,
nên nguyên tắc chỉ đạo tương đồng. Tiếp
theo đó: “Tịnh vân: Tín nguyện
tŕ danh vi nhất kinh yếu chỉ” (Lại c̣n nói, tín
nguyện tŕ danh là ư chỉ chánh yếu của bộ kinh).
Những câu này đều do Ngẫu Ích đại sư nói.
“Tín nguyện vi huệ hạnh,
tŕ danh vi hành hạnh, đắc sanh dữ phủ, toàn do
tín nguyện chi hữu vô; phẩm vị cao hạ, toàn do
tŕ danh thâm thiển” (Tín nguyện là huệ hạnh, tŕ
danh là hành hạnh, được văng sanh hay không toàn là do có
tín nguyện hay không? Phẩm vị cao hay thấp toàn là do
tŕ danh sâu hay cạn). Hai câu này nói rất tuyệt! Đấy
là nguyên tắc chỉ đạo tu học tối cao trong Tịnh
Tông. “Cố huệ hạnh vi
tiền đạo, hành hạnh vi chánh tu” (do vậy, huệ
hạnh để dẫn đường, hành hạnh là hạnh
chánh yếu phải tu tập). Tín nguyện th́ như trong
khi giảng giải kinh Di Đà, chúng tôi đă giảng câu: “Chẳng thể dùng chút ít thiện
căn, phước đức, nhân duyên để được
sanh về cơi ấy”. Thiện căn là ǵ? Thiện
căn là có thể tin, có thể hiểu, đấy là thiện
căn. Phước đức là ǵ? Phước đức
là có thể niệm, quư vị thật sự hành, thật sự
tŕ danh. Nhân duyên là hoàn cảnh trợ duyên bên ngoài, quư vị
gặp gỡ pháp môn này, gặp những thiện tri thức
tu học pháp môn này, họ giúp đỡ quư vị, đấy
là ngoại duyên. Trọn đủ ba món thiện căn, phước
đức, nhân duyên này, quyết định được
văng sanh. Ba món ấy, thiếu một món nào, cũng đều
chẳng được! Quư vị có phước đức,
có nhân duyên, nhưng thiếu thiện căn, gặp [pháp môn
này] sẽ như thế nào? Chẳng tin tưởng, mà cũng
không có cách nào lư giải; v́ thế, ư nguyện niệm Phật
cầu văng sanh chẳng dấy lên. Nếu không có phước
đức, quư vị có thể tin và hiểu, nhưng không hành
được, chẳng chống nổi tiếng tăm lợi
dưỡng trước mắt dụ dỗ, mê hoặc.
Chẳng phải là quư vị không hiểu, nhưng sức dụ
dỗ, mê hoặc quá mạnh, biết rơ mà vẫn cố phạm,
kẻ như vậy rất nhiều, chẳng phải là không
đông đảo! V́ vậy, tổ Ấn Quang suốt đời
đề xướng giáo dục nhân quả, hết sức
có lư! Hiểu nhân quả là ǵ? Hiểu nhân quả, [sẽ biết]
vấn đề sanh tử đúng là chuyện lớn! Đời
đời kiếp kiếp mê hoặc, điên đảo làm
chuyện ấy, kết bao nhiêu oan nghiệp với hết
thảy chúng sanh. Thật sự hiểu rơ ràng, minh bạch,
hiểu rành rẽ đạo lư và chân tướng sự thật
của nhân quả, thật sự giác ngộ, sẽ không làm
nữa, hạ quyết tâm chẳng làm nữa, trong đời
này ta nhất định phải thoát lục đạo, ra
khỏi mười pháp giới. Đó là sức mạnh của
nhân quả, vậy th́ quư vị thật sự làm. Thật
sự làm là đại phước đức, vô lượng
phước đức. Hành hạnh là chánh tu, niệm niệm
chẳng ĺa A Di Đà Phật, nhất niệm tương ứng
nhất niệm Phật, niệm niệm tương ứng
niệm niệm Phật, tương ứng với A Di
Đà Phật. “Như mục
túc tịnh vận” (như mắt và chân cùng vận dụng),
đây là nói tỷ dụ, dễ hiểu, ta thấy đường,
ta liền bước một bước.
Lại nói:
“Thâm tín phát nguyện, tức Vô
Thượng Bồ Đề. Hợp thử tín nguyện,
đích vi Tịnh Độ chỉ nam, do thử nhi chấp
tŕ danh hiệu, năi vi Chánh Hạnh” (Tin sâu, phát nguyện, tức
là Vô Thượng Bồ Đề. Hợp tín và nguyện lại,
sẽ đích xác là kim chỉ nam cho Tịnh Độ. Do những
điều ấy, chấp tŕ danh hiệu, chính là Chánh Hạnh).
Ngẫu Ích đại sư nói mấy câu này rất hay! Trong
Chánh Hạnh c̣n có điều kiện, phải niệm như
thế nào? Trong câu Phật hiệu ấy trọn đủ
“thâm tín, phát nguyện, phát nguyện cầu sanh Tịnh
Độ”. Phật đạo vô thượng thệ nguyện
thành; nếu đă thành Phật đạo, quư vị hăy nghĩ
xem, độ chúng sanh, đoạn phiền năo, học pháp
môn chẳng phải đều gộp trong ấy hay sao? Bốn
câu Tứ Hoằng Thệ Nguyện, mỗi câu sau sâu hơn
câu trước. Hễ có điều thứ nhất, ắt
có điều thứ hai. Có điều thứ hai, nhất
định phải có điều thứ nhất. Có điều
cuối cùng th́ ba điều trước đó nhất
định phải trọn đủ; v́ thế, nó là viên
măn. Do vậy, “tin sâu, phát nguyện” là vô thượng Bồ
Đề. “Hợp thử tín
nguyện” là chỉ nam của Tịnh Độ, nương
theo đó chấp tŕ danh hiệu là Chánh Hạnh. Ngẫu Ích
đại sư nói: Đầy đủ những điều
kiện này mới là Chánh Hạnh thật sự. “Đại Bổn A Di Đà Kinh”
là kinh Vô Lượng Thọ, “diệc
dĩ phát Bồ Đề nguyện vi yếu, chánh dữ
thử đồng” (cũng coi phát Bồ Đề nguyện
là trọng yếu, hoàn toàn tương đồng với điều
này). Trong bốn mươi tám nguyện, nguyện thứ mười
tám là chấp tŕ danh hiệu, nguyện thứ mười
chín là “phát Bồ Đề tâm” và “văng sanh Tịnh Độ
đều là A Duy Việt Trí Bồ Tát”. Câu này cũng nhằm
nói tới nguyện thứ mười chín. “Khả kiến tín nguyện tŕ danh dữ phát Bồ
Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm, chánh thị
đồng chỉ” (có thể thấy tín nguyện tŕ
danh và phát Bồ Đề tâm, một bề chuyên niệm, đúng
là cùng một tông chỉ), có cùng một tông chỉ! Ngẫu
Ích đại sư nói bốn chữ, kinh Vô Lượng Thọ
nói tám chữ, nhưng có cùng một ư nghĩa, chỉ thú hoàn
toàn tương đồng. “Ngẫu
Ích đại sư dĩ tín nguyện tŕ danh vi Tiểu Bổn
chi Tông. Đại Tiểu lưỡng bổn, tông chỉ ưng
đồng. Cố kim viết” (Ngẫu Ích đại
sư coi “tín nguyện tŕ danh” là Tông của Tiểu Bổn.
Tông chỉ của hai bản Đại và Tiểu phải
giống nhau, nên nay nói), nay chúng ta đang học tập kinh
Vô Lượng Thọ, “phát Bồ
Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm, vi Đại
Bổn chi Tông. Chánh thị tuân phụng Ngẫu Ích đại
sư chi thùy giáo dă” (phát Bồ Đề tâm, một bề
chuyên niệm là Tông của Đại Bổn, đấy chính
là tuân phụng lời dạy của Ngẫu Ích đại
sư vậy), hoàn toàn tương ứng với lời dạy
của Ngẫu Ích đại sư.
Đoạn
tiếp theo lại giải thích “nhất
hướng chuyên niệm”. “Nhất
Hướng nhị tự chữ hữu sổ nghĩa”
(hai chữ Nhất Hướng có mấy nghĩa), trong ấy
có mấy ư nghĩa:
- Thứ nhất, “triều hướng nhất
phương tiền tấn” (hướng theo một phương
để tiến lên), “nhất
phương” là Tây Phương, mục đích là thế
giới Cực Lạc, chữ Nhất Hướng có ư nghĩa
thứ nhất như vậy.
- Thứ hai, “thiên hướng nhất biên”
(ngả theo một bên), quyết định chẳng lấy
Đông, Nam, Bắc, chuyên lấy Tây Phương, cũng chẳng
lấy phía trên, hay phía dưới, riêng lấy Tây
Phương, cũng là cùng một ư nghĩa với “triều hướng nhất
phương” trong đoạn trên.
- Thứ ba là “nhất vị” (một vị).
- Thứ tư là “tổng thị” (luôn là).
- Thứ năm là “nhất đoạn thời gian”
(một khoảng thời gian). Ư nghĩa thứ năm là “nhất đoạn thời gian”
cũng nói rất hay, tức là nói khoảng thời gian hiện
tiền này, chẳng nói tới quá khứ, mà cũng không nói
tới tương lai. Trong khoảng thời gian hiện tiền
này, chúng ta nhất định phải hoàn thành, phải đạt
mục đích. “Tổng thị”
nghĩa là khởi tâm động niệm luôn là A Di Đà Phật,
quyết định chẳng có tạp niệm. “Nhất vị” và “tổng thị” mang ư nghĩa
này.
“Cố tri nhất hướng chuyên niệm A Di
Đà Phật, tức chuyên hằng y chỉ tŕ danh niệm
Phật pháp môn chi nghĩa dă”
(nên biết một bề chuyên niệm A Di Đà Phật chính
là ư nghĩa chuyên luôn luôn y chỉ pháp môn tŕ danh niệm Phật),
trọng yếu lắm! Chúng ta hăy nên buông xuống vạn
duyên. Không chỉ buông xuống vạn duyên, mà ngay cả Phật
pháp cũng buông xuống. Liên Tŕ đại sư đă nêu gương
cho chúng ta, lăo nhân gia nói: “Tam Tạng
thập nhị bộ, nhượng cấp biệt nhân ngộ”
(Tam Tạng mười hai bộ, nhường cho người
khác ngộ), Ngài không làm nữa! “Bát
vạn tứ thiên hạnh, nhiêu dữ biệt nhân hành”
(tám vạn bốn ngàn hạnh, dành cho kẻ khác hành). Quư vị
thích học pháp môn ấy th́ học, lăo
nhân gia cung kính tán thán. Chính Ngài th́ sao? Chính Ngài chuyên niệm Di
Đà, thật sự chuyên.
Có một
năm, do [thuở trước] Ngài trụ tại Hàng Châu,
tôi đến thăm đạo tràng của Ngài; hiện thời
nơi ấy mở quán trà, quả thật, chúng tôi thấy
như vậy rất khó chịu! Trong Đại Hùng Bảo Điện, toàn bộ tượng
Phật chẳng c̣n nữa, biến thành quán trà, đạo
tràng của tổ sư đấy nhé! Đại điện
chùa ấy có tên là Thần Vận Điện; v́ thế, chúng
tôi nghĩ đến [chuyện ấy] cũng rất khó chịu!
Có một năm, Hàng Châu bị hạn hán vô cùng nghiêm trọng,
quan Thái Thú, thuở ấy là Thái Thú, hiện thời là Thị
Trưởng, đến cầu xin lăo ḥa thượng: “Mong
lăo ḥa thượng hăy phát tâm từ bi cầu mưa dứt
hạn hán”. Trong Phật môn, quư vị thấy bản Đại
Khóa Tụng có nghi thức cầu mưa, đó là cầu long
vương. Liên Tŕ đại sư bảo mọi người:
“Ta không biết nghi quy ấy, ta chỉ biết niệm Phật.
Chúng ta cùng nhau niệm Phật là được rồi”. Ngài
dẫn cả đống người, gơ mơ niệm A Di
Đà Phật, bước trên bờ ruộng, quả thật,
Ngài đi tới đâu, mưa tuôn tới đó, thật sự
linh ứng! Dùng một câu A Di Đà Phật, nghi thức ǵ
cũng đều chẳng có, hễ thành ắt linh mà! Trong
truyện kư của Liên Tŕ đại sư có chép câu chuyện
như thế. Một câu A Di Đà Phật vô cùng hữu dụng,
chỉ cần thành tâm, thành ư, chắc chắn chẳng hoài
nghi, nhất định chẳng xen tạp, sẽ có cảm
ứng. Liên Tŕ đại sư dùng câu Phật hiệu A Di
Đà Phật để cầu mưa, bèn cầu được!
Hiện thời,
h́nh như là năm trước, tại huyện Khánh Vân, tỉnh
Sơn Đông, cư sĩ Tề Tố B́nh dựng chùa ở
nơi ấy, tức Kim Sơn Tự. Lúc ấy, ở nơi
đó, bốn trăm mẫu ruộng tiểu mạch (lúa ḿ)
sắp thu hoạch, bỗng nhiên bị nạn châu chấu.
Chuyện này phiền lắm, tiểu mạch sẽ bị
châu chấu ăn sạch. Nông dân vùng phụ cận bảo
bà ta phải phun thuốc sát trùng. Tề cư sĩ gọi
điện thoại hỏi tôi, phun thuốc sát trùng là sát sanh!
Tôi nói: “Bà hăy suy nghĩ xem nên xử lư ra sao!” Cuối cùng, bà
ta nghĩ thông suốt, chẳng sát sanh, trọn chẳng
phun thuốc sát trùng, thà đem hơn bốn trăm mẫu
tiểu mạch để cho châu chấu ăn, cúng dường
chúng nó, cũng chẳng sát hại chúng nó. Dấy lên ư niệm
ấy, bà ta dẫn một đám người vào ruộng lúa
mạch niệm A Di Đà Phật, đi nhiễu quanh ruộng
niệm Phật. Trời tuôn một trận mưa nhỏ,
sau khi một trận gió quét qua, chẳng c̣n một con trùng
gây hại nào! Những nông dân vùng phụ cận rất kinh
ngạc, v́ sao không có? Thật vậy! Chẳng t́m được
con nào, bội thu! Nếu bà ta phun thuốc trừ sâu, sẽ
kết oán cùng những chúng sanh ấy, phiền phức to lớn.
Bà ta đă phát tâm từ bi, một con châu chấu nhỏ cũng
chẳng giết. Bà ta cũng không nghĩ chúng nó sẽ rời
đi, kết quả là những con tiểu trùng ấy thật
sự chẳng c̣n, bà ta kể cho tôi nghe chuyện này. Tuần
trước, quư vị thấy cư sĩ Lưu Tố Vân
ở Đông Bắc, mười một năm trước
bị hồng ban lang sang (systemic lupus erythematosus) hết sức
nghiêm trọng. Bác sĩ bảo bà ta hăy chuẩn bị tâm lư
v́ có thể chết bất cứ lúc nào. Bà ta mắc chứng
hồng ban lang sang nghiêm trọng, những người mắc
bệnh nhẹ hơn bà ta đều chết cả rồi,
c̣n bà ta một mực tin tưởng niệm “A Di Đà Phật”,
tin tưởng A Di Đà Phật là đại y
vương, A Di Đà Phật nhất định trị lành
bệnh cho bà ta, do nhất niệm ấy mà niệm A Di
Đà Phật, bệnh ấy thật sự lành. Đến
nay là mười một năm rồi, bà ta báo cáo với chúng
ta ở nơi đây, nói suốt mười mấy giờ,
nói thật hay! Năm nay, bà ta sáu mươi sáu tuổi, giảng
cho chúng ta ở đây mỗi ngày hai tiếng. Sau khi giảng
xong, Hướng Tiểu Lỵ ở Thâm Quyến mời bà
ta sang đó, giảng hai ngày tại đạo tràng của
bà Hướng, mỗi ngày giảng tám tiếng, diễn giảng
sáu tiếng, hai tiếng trả lời câu hỏi, chẳng
có vẻ mệt mỏi. Phát Bồ Đề tâm, một mực
chuyên niệm, oai lực chẳng thể nghĩ bàn!
Tiếp
theo đó, sách viết: “Nhất
hướng chuyên niệm, bổn ư Di Đà bổn nguyện
đệ thập bát, thập niệm tất sanh chi đại
nguyện” (Một mực chuyên niệm vốn là nguyện
thứ mười tám trong bổn nguyện Di Đà, tức
là đại nguyện mười niệm ắt được
văng sanh). Câu này nói tới nguyện thứ mười tám, câu
này (tức câu “nhất hướng
chuyên niệm”) phát xuất từ nguyện thứ mười
tám. “Di Đà nhân trung phát thập
niệm tất sanh đại nguyện” (trong lúc tu nhân, đức
Di Đà đă phát ra đại nguyện “mười niệm
ắt được văng sanh”), đó là nói tới lúc lâm
chung, nói về hạng người nào? Suốt đời chẳng
nghe Phật pháp, chẳng có tín ngưỡng tôn giáo, khi lâm
chung, đầu óc tỉnh táo, chẳng mê hoặc tí nào, gặp
gỡ thiện hữu, gặp một người niệm
Phật, khuyên người ấy niệm Phật cầu sanh
Tịnh Độ, vừa nghe liền tin tưởng, vừa
nghe liền bằng ḷng, thật sự làm, A Di Đà Phật,
A Di Đà Phật, mười tiếng bèn văng sanh. Mười
tiếng ấy là tịnh niệm tiếp nối, chẳng
hoài nghi, chẳng xen tạp, chẳng gián đoạn, mười
tiếng! Đó là bổn nguyện của A Di Đà Phật.
Ngẫu Ích đại sư cũng dựa vào nguyện này mà
bảo: “Có thể văng sanh hay không được quyết
định bởi có tín nguyện hay không?” Người ấy
thật sự tin, nguyện thiết tha, tŕ danh niệm Phật,
tịnh niệm tiếp nối, bất quá thời gian rất
ngắn mà có thể thành công, là do tương ứng với
bổn nguyện của A Di Đà Phật. “Cố hành nhân phát Bồ Đề tâm, nhất hướng
chuyên niệm, tất đắc văng sanh Tịnh Độ,
viên chứng Bất Thoái chi diệu quả” (cho nên hành nhân
phát Bồ Đề tâm, một mực chuyên niệm, ắt
được văng sanh Tịnh Độ, chứng trọn
vẹn diệu quả Bất Thoái). Viên chứng ba thứ Bất
Thoái: Vị Bất Thoái, Hạnh Bất Thoái, Niệm Bất
Thoái.
“Kinh trung thượng bối, trung bối, cập hạ
bối văng sanh chi nhân, giai do ư phát Bồ Đề tâm, nhất
hướng chuyên niệm A Di Đà Phật, nhi văng sanh Cực
Lạc Tịnh Độ. Cái dĩ quả giác nhân tâm, cứu
cánh phương tiện, toàn hiển Di Đà Nhất Thừa
nguyện hải, lục tự hồng danh, bất khả
tư nghị chi oai thần công đức” (Người văng sanh thuộc bậc thượng,
bậc trung và bậc hạ trong kinh đều do phát Bồ
Đề tâm, một mực chuyên niệm A Di Đà Phật
mà văng sanh Cực Lạc Tịnh Độ. Ấy là v́ dùng
quả giác để làm cái tâm tu nhân, phương tiện rốt
ráo, hiển lộ toàn vẹn biển nguyện Nhất Thừa
của Phật Di Đà. Sáu chữ hồng danh có oai thần
và công đức chẳng thể nghĩ bàn). Qua những câu
này, cụ Hoàng Niệm Tổ đă buốt ḷng rát miệng
khuyên dạy chúng ta, chúng ta đă trọn đủ duyên, chỉ
e thiện căn và phước đức c̣n thiếu kém đôi
chút. Thiếu kém đôi chút chẳng sao, trong một đời
này, chúng ta có thể bổ khuyết. Nói gần gũi hơn
tí nữa th́ hiện nay ta bù đắp cho đủ, nguyện
vọng cầu văng sanh sẽ được thỏa. Nếu
chẳng bù đắp cho đủ, cả đời này rất
có thể sẽ lỡ làng! Trong t́nh h́nh giống như thế,
bản thân chúng ta hăy nên khẳng định đời đời
kiếp kiếp trong quá khứ, chúng ta đă từng nhiều
lần gặp gỡ [pháp môn này], v́ sao chẳng văng sanh? Là v́
chẳng bù đắp cho đủ tín nguyện bị khiếm
khuyết đôi chút, cho nên vẫn phải lưu chuyển
theo nghiệp.
Ta ưa thích pháp môn này,
nhưng pháp môn nọ rất trọng yếu, vẫn tu tập
[thêm pháp môn ấy], chẳng giống như cổ đại
đức. Cổ đại đức phải đạt
được Tịnh Độ trước rồi mới
học thêm pháp khác. Giống như Giao Quang đại
sư, Ngài đă chứng đắc Tịnh Độ, khi lâm
chung, A Di Đà Phật tới tiếp dẫn, Ngài đă đạt
được, [tức là đă] đạt được
[Tịnh Độ], nhưng Ngài nghĩ chú giải kinh Lăng
Nghiêm có vấn đề, những chú giải của cổ
đại đức chưa phải là ư nghĩa của Phật,
nên xin A Di Đà Phật cho hoăn lại để con viết
xong xuôi bộ chú giải này. A Di Đà Phật chấp thuận.
Quư vị thấy Ngài đă nắm chắc Tịnh Độ,
cũng có nghĩa là đối với sự văng sanh của
chính ḿnh chẳng c̣n bị trở ngại, có thể tự
tại trụ trong thế gian này một thời gian dài hay
ngắn: Muốn đi sớm một ngày bèn được,
có thể đi. Muốn giúp đỡ chúng sanh, ở lại
mấy năm cũng chẳng trở ngại, do có công phu ấy
bèn được!
Nếu không có công phu ấy,
chúng ta phải nhớ: Chúng ta coi thế giới Cực Lạc
là đại sự hàng đầu, v́ sao? Tới thế giới
Cực Lạc bèn thành Phật. Tổ sư đại
đức bảo chúng ta: “Đản
đắc kiến Di Đà, hà sầu bất khai ngộ”
(chỉ thấy Phật Di Đà, lo chi chẳng khai ngộ),
“ngộ” ấy là đại
triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, kiến tánh
thành Phật, chẳng phải là ngộ tầm thường!
Sau khi thật sự triệt ngộ, sẽ giống như
Phật, thực hiện nguyện thứ nhất trong Tứ
Hoằng Thệ Nguyện, “chúng
sanh vô biên thệ nguyện độ”, quư vị có thể
thật sự làm được, đối với chính
ḿnh, độ chúng sanh chẳng bị trở ngại mảy
may nào. Chúng sanh có cảm, quư vị bèn có ứng, cảm ứng
đạo giao trọn chẳng trái thời!
Từ sách Hoàn Nguyên Quán,
chúng ta thấy ư niệm ấy dấy lên sẽ trọn khắp
pháp giới, ư niệm cảm của chúng ta sẽ trọn
khắp pháp giới. Phật, Bồ Tát trọn pháp giới
hư không giới, những vị Bồ Tát ấy là Pháp
Thân Bồ Tát, sẽ lập tức ứng. Có khi chúng ta cầu
mà chẳng có ứng, có phải là chẳng linh hay chăng? Chẳng
phải. Lúc tôi mới học Phật đă có những nghi
vấn ấy, Chương Gia đại sư giải
thích: Chẳng phải là không có ứng. Có ứng, nhưng quư
vị chẳng cảm nhận được, do nguyên nhân
nào? Chính quư vị có nghiệp chướng. Chúng ta cảm, ví
như làn sóng của chúng ta gởi tới Phật, Bồ
Tát, Phật, Bồ Tát có sự hồi ứng; khi sự hồi
ứng trở về bên ta, do ta có nghiệp chướng, nên
chính ḿnh chẳng cảm nhận được! Hễ nghiệp
chướng tiêu trừ, sẽ có ứng vô cùng rơ rệt. “Trong cửa nhà Phật, có cầu
ắt ứng”, Sự Lư cảm ứng cũng rất
sâu, đức Phật dạy có bốn thứ.
V́ vậy, học Phật,
niệm Phật cũng là tiêu nghiệp chướng. Kinh dạy
niệm A Di Đà Phật một tiếng, tiêu trừ trọng
tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử, mới
biết công đức niệm Phật chẳng thể
nghĩ bàn. Cổ đại đức thường nói: “Niệm kinh chẳng bằng niệm
chú, niệm chú chẳng bằng niệm Phật”. V́ sao chúng
ta niệm Phật chẳng tiêu nghiệp chướng? Tâm chúng
ta không thanh tịnh, chưa đoạn nghi lự, cho nên có hoài
nghi, xen tạp, lại c̣n thường xuyên gián đoạn.
V́ thế, Phật, Bồ Tát ứng, chúng ta rất khó cảm
nhận. Hiểu rơ chân tướng sự thật này, sau đấy,
chúng ta mới biết sám trừ nghiệp chướng là một
đại sự rất trọng yếu. Sám hối nghiệp
chướng; sám hối bằng cách nào? Vẫn là một câu
cũ rích: “Buông xuống!” Đừng chứa trong ḷng những
thứ tạp nhạp, tâm địa khôi
phục thanh tịnh, sám trừ nghiệp chướng.
Nghiệp
chướng chẳng trừ, tâm quư vị làm sao có thể
thanh tịnh được? Đời trước, đời
này, tập khí nghiệp chướng, “đời trước”
là tập khí, thảy đều phải buông xuống. Nói
cách khác, chớ nên nghĩ tới nữa! [Những chuyện
ấy] không chỉ là chuyện
quá khứ, mà c̣n là chuyện đă qua lâu rồi, phải nhớ
kỹ lời Phật dạy: “Phàm
những ǵ có h́nh tướng đều là hư vọng”.
Đă là hư vọng, quư vị nghĩ tới nó để
làm ǵ? Quư vị nhớ tới nó để làm ǵ? Quư vị nghĩ
tới nó sẽ lại tạo nghiệp. Quư vị nhớ
tới nó cũng tạo nghiệp! Thân khẩu chẳng tạo
nghiệp, nhưng ư tạo nghiệp. Ư nghiệp chẳng ngừng!
Thân khẩu tạo nghiệp c̣n có lúc gián đoạn, khi ngủ,
thân khẩu chẳng tạo nghiệp, nhưng ư vẫn tạo
nghiệp, ư niệm của quư vị chẳng ngừng. Nói
cách khác, quư vị vẫn đúng là “trong tâm vướng mắc
quá nhiều, không bỏ xuống được”. Hiện thời
phải biết: Nếu muốn liễu sanh tử, nếu
muốn vĩnh viễn thoát ly lục đạo luân hồi,
hăy hết sức hâm mộ Phật, Bồ Tát, mong mỏi ta
cũng có thể làm Phật, Bồ Tát, quư vị sẽ thật
sự buông xuống. Quư vị chẳng thể làm Phật là
v́ chưa buông xuống; hễ buông xuống sẽ làm được!
Pháp môn
này là do A Di Đà Phật dùng tâm quả giác làm phương
tiện rốt ráo dạy bảo chúng ta, chẳng giống
các pháp môn thông thường. Pháp môn thông thường là lấy
cái tâm tu nhân để cầu sự giác ngộ nơi quả
địa. V́ thế, những pháp môn ấy theo từng
giai đoạn, tiến lên cao hơn theo từng giai đoạn
một, từ Thập Tín tới Thập Trụ, Thập Hạnh,
Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng
Giác, Diệu Giác. Tiến lên cao như thế, dùng cái tâm tu
nhân để chứng quả giác. Pháp môn này chẳng giống
như vậy, mà là quả giác. Danh hiệu A Di Đà Phật
là quả giác, lấy quả giác tâm làm nhân địa tâm (cái
tâm trong lúc tu nhân), nhân và quả chẳng hai. Cho nên chúng ta niệm
câu “đức hiệu” A Di Đà Phật này sẽ thành A Di
Đà Phật. Chỗ y cứ thật sự là dựa trên
căn cứ nào? Tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ,
dựa trên điều này! Tây Phương Tịnh Độ
của A Di Đà Phật do đâu mà có? Do tự tánh sanh ra,
hiện ra! Nay chúng ta dùng tự tánh để niệm Phật,
cho nên vượt khỏi những tầng lớp ấy,
chẳng cần đến bốn mươi mốt tầng
cấp, đốn siêu, thành tựu.
“Toàn hiển Di Đà Nhất Thừa nguyện
hải, lục tự hồng danh, bất khả tư nghị
chi oai thần, công đức” (Hiển lộ trọn vẹn biển nguyện
Nhất Thừa của Phật Di Đà, sáu chữ hồng
danh có oai thần và công đức chẳng thể nghĩ
bàn), tôi vừa mới nói ư nghĩa này. Chúng ta phải thật
sự tin vào những Lư Sự này; v́ thế, pháp môn này gọi
là “pháp khó tin”, quư vị không tin, người khác không tin,
đó là hiện tượng b́nh thường. Nếu không,
làm sao có thể gọi là “pháp khó tin?” Bồ Tát khó tin, Thanh
Văn, Duyên Giác khó tin. Có lúc phàm
phu lại tin tưởng; vậy th́ phàm phu vượt trỗi
Thanh Văn, Bồ Tát hay chăng? Đương nhiên chẳng
thể vượt trỗi được! V́ sao phàm phu có
thể tin? Trong đời quá khứ, đă từng học
pháp môn này; trong A Lại Da Thức có chủng tử Tịnh
Độ, đời này gặp gỡ, khiến cho chủng
tử trong quá khứ hiện hành. Nếu chẳng có nhân ấy,
sẽ chẳng thể nào [tin tưởng]. Bất luận
sơ học gian nan ra sao, học mười năm, hai
mươi năm, ba mươi năm, năm mươi năm,
sẽ thật sự tin, đó là ǵ? Chủng tử trong A Lại
Da Thức hiện hành. Nếu đă học tập từ
những kiếp lâu xa, chủng tử sẽ gieo rất sâu
trong A Lại Da Thức. Duyên thù thắng, có bạn lành, có thuận
cảnh giúp đỡ quư vị, chủng tử trong đời
quá khứ nhất định sẽ hiện hành, cho nên tiếp
nhận. Có khi tới lúc lâm chung, sự tiếp nhận ấy
mới tỏ lộ, nhưng hễ tiếp nhận là được
rồi, lâm chung mười niệm bèn văng sanh. Người
ấy văng sanh trong phẩm vị nào? Nói [nhất quyết] là
Hạ Hạ phẩm th́ cũng rất khó nói, Hạ Hạ
phẩm là đa số, nhưng cũng có người là Thượng
Thượng phẩm, [tuy là] thiểu số. Điều này
liên quan đến sự tu học trong đời quá khứ,
tuyệt đối chẳng phải là thành tựu trong một
đời này!
“Hựu nhất hướng
chuyên niệm giả, cổ vân: Thượng tận h́nh thọ,
hạ chí thập niệm. Thượng tận h́nh thọ giả,
chỉ tùng phát tâm niệm Phật chi nhật, chung thân niệm
Phật” (lại nữa, đối với chuyện một
bề niệm Phật, cổ nhân nói: “Bậc thượng
là suốt đời, bậc hạ là chỉ mười
niệm”. Bậc thượng thọ tŕ suốt đời
là kể từ ngày phát tâm niệm Phật, bèn suốt đời
niệm Phật). Kể từ khi hiểu rơ ràng, minh bạch
Tịnh Tông, bèn hoàn toàn tiếp nhận, bắt đầu
thật thà niệm Phật, hễ sống một ngày bèn niệm
một ngày, đó gọi là “tận
h́nh thọ”. “Trực chí mạng
chung chi tối hậu nhất niệm, thử năi kỳ
thượng giả. Kỳ hạ giả, vị năng cập
thử, hoặc nhân chướng trọng, hoặc dĩ sự
phồn, vị hạ đa niệm” (Măi cho đến một
niệm cuối cùng lúc lâm chung, đó là bậc thượng.
C̣n bậc hạ th́ chưa được như vậy,
hoặc v́ chướng nặng, hoặc do lắm việc,
chẳnh rảnh rỗi để niệm nhiều), đây
là nói tới phước đức. Chư vị nhất
định phải hiểu phước đức thật
sự là ǵ? Niệm Phật là phước đức thật
sự. Quư vị suốt ngày từ sáng đến tối Phật
hiệu chẳng dứt, đó là người đại phước
đức! V́ sao nói là người đại phước
đức? Văng sanh Cực Lạc thế giới chẳng
phải là phước đức tuyệt diệu ư? Chẳng
phải là đại phước đức th́ làm sao quư vị
có thể văng sanh? Suốt ngày từ sáng đến tối niệm
câu Phật hiệu này, quư vị càng niệm, phẩm vị
càng cao! Như trong Thập Lục Quán Kinh đă nói, trong tương
lai quư vị văng sanh, hoa sen càng ngày càng to! Các thứ trong thế
giới Cực Lạc đều giống nhau, chỉ có
hoa sen khác biệt, v́ sao? Công phu niệm Phật của mỗi
cá nhân khác nhau, nên hoa sen lớn hay nhỏ khác nhau, ánh sáng và màu
sắc của mỗi hoa sen khác biệt. Do vậy, người
trong thế giới Cực Lạc thấy rất rơ ràng, người
trong hoa sen ấy c̣n chưa sanh về, nhưng đă thấy
hoa sen trước, [tức là] thấy hoa sen trong ao bảy
báu, thấy hoa ấy, [liền biết] công phu niệm Phật
của người ấy khá lắm, hay công phu niệm Phật
của người ấy dở hơn một chút, họ đều
có thể thấy rơ ràng từ nơi ấy. Hoa sen to, ánh sáng
và màu sắc tốt đẹp, chắc chắn người
ấy đến Tây Phương Cực Lạc thế giới
thành Phật rất nhanh, vận dụng công phu sâu xa mà!
Trong kinh,
đức Phật dạy: Tu hành một ngày trong thế giới
Sa Bà bằng tu hành một trăm năm trong Tây
Phương Cực Lạc thế giới. Thế giới
này khá lắm, giúp cho chúng ta thành tựu rất nhanh, c̣n sang Tây
Phương Cực Lạc thế giới, thành tựu
thong thả, ở nơi đây rất nhanh. Cái hay của thế
giới Tây Phương là thọ mạng dài, vô lượng
thọ, chẳng bị mê khi cách ấm, thành tựu trong một
đời. Thế gian này sóng gió quá lớn, thoạt ch́m,
thoạt nổi đời đời kiếp kiếp, cho
nên khổ nhiều, vui ít. Nhưng nếu tu hành th́ nơi đây
đúng là tu hành tốt đẹp, thời thời, khắc
khắc, từng phút, từng giây đều khảo nghiệm
công phu của quư vị. Quyết định chẳng sanh
phiền năo, trong thuận cảnh chẳng tham luyến, phải
đoạn cái tâm [tham luyến] ấy, trong nghịch cảnh
chẳng oán hận. Nói cách khác, trong thuận cảnh hay nghịch
cảnh, bất luận hoàn cảnh nhân sự (quan hệ
giữa con người với nhau), hay hoàn cảnh vật
chất, tu ǵ? Tu thanh tịnh, b́nh đẳng. Giác chẳng
cần nhắc tới, hễ thanh tịnh b́nh đẳng sẽ
tự nhiên giác. Đạo lư này tương ứng với
“chuyển thức thành trí” của Pháp Tướng Tông.
Tướng Tông nói
“chuyển thức thành trí” là “lục,
thất nhân thượng chuyển. Ngũ, bát quả
thượng chuyển” (chuyển thức thứ sáu và
thứ bảy trong khi tu nhân; chuyển năm thức trước
và thức thứ tám nơi quả). Chuyển thức thứ
sáu, tức Ư Thức, thành Diệu Quán Sát Trí, đó là tâm thanh
tịnh. Chuyển thức thứ bảy thành B́nh Đẳng
Tánh Trí, tức là thức thứ bảy chẳng c̣n phân biệt,
b́nh đẳng sẽ hiện tiền. Giác là chuyển nơi
quả. Do vậy, chúng ta phải coi trọng tu thanh tịnh
và b́nh đẳng; nghĩa là thức thứ sáu và thức
thứ bảy đă chuyển, thức thứ tám và năm
thức trước sẽ chuyển theo. Chúng ta dùng phương
pháp ǵ để chuyển? Dùng một câu Phật hiệu này!
Trong thuận cảnh mới có một tí tham niệm dấy
lên, bèn A Di Đà Phật, chuyển niệm ấy thành A Di
Đà Phật. Trong nghịch cảnh mới có một tí oán
hận, bèn A Di Đà Phật, chuyển toàn bộ thành A Di
Đà Phật. Cách này tuyệt diệu! V́ thế, tổ
sư đại đức thường nói “ám hợp đạo diệu”
(thầm hợp đạo mầu), chẳng thấy chuyển,
nhưng thật sự chuyển biến. Câu Phật hiệu
này câu nọ tiếp câu kia chẳng để gián đoạn,
trong mỗi tiếng Phật hiệu chẳng hoài nghi, chẳng
xen tạp, công phu thuần thục!
Tiếp đó,
sách viết: “Tắc ư mỗi
nhật hành Thập Niệm pháp, diệc phù ư nhất
hướng chuyên niệm” (Dù mỗi ngày hành pháp Thập
Niệm, cũng phù hợp [tông chỉ] một mực chuyên
niệm). Pháp Thập Niệm do tổ sư đại
đức nói với kẻ gặp lúc công việc bận bịu,
nhiều việc quá, không có thời gian để niệm Phật,
cũng chẳng có thời gian để tụng niệm công
khóa sáng tối, quư vị bèn dùng cách Thập Niệm. Buổi
sáng thức dậy, sau khi rửa mặt, súc miệng, hướng
về tượng Phật, nếu không có tượng Phật,
hăy ngoảnh mặt về phương Tây, cứ hết một
hơi là một niệm. Một niệm chẳng câu nệ
nhiều hay ít, [cứ niệm] một hơi A Di Đà Phật,
A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, hết một hơi là
một niệm. Niệm mười hơi, suốt đời
chẳng gián đoạn, cũng gọi là “nhất hướng chuyên niệm”. Khi tôi ở Tân
Gia Ba, tôi dạy các đồng học một cách Thập Niệm
khác, [tức là] thập thanh Phật hiệu. Dùng pháp Thập
Niệm này, so về mặt thời gian càng dễ làm hơn.
A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, niệm
mười câu như vậy, mỗi ngày niệm chín lần.
Buổi sáng thức dậy, rửa mặt, súc miệng, niệm
một lần; buổi tối trước
khi ngủ niệm một lần. Đó là hai lần. Mỗi
ngày khi ăn ba bữa cơm đều niệm Phật hiệu
mười câu rồi mới ăn, đó là ba lần. Do vậy,
ta có năm lần rồi! Quư vị buổi sáng đi làm,
buổi chiều tan sở, trước khi làm việc, ngồi
nơi bàn giấy niệm mười câu rồi mới làm,
khi tan sở, sau khi làm xong công việc, niệm Phật hiệu
mười câu rồi mới rời khỏi chỗ.
Buổi sáng, buổi chiều thành bốn lần, tổng cộng
chín lần. Niệm đâu nghĩ tại đó, tuy rất
đơn giản, thời gian chỉ một phút là xong, nhưng
hết sức có hiệu quả. V́ sao? Thời thời khắc
khắc quư vị đều nghĩ tới Phật. Dùng cách
này làm “định khóa” (công khóa nhất định), những
khi khác là “tán khóa”. Tán khóa là khi nào quư vị nghĩ đến,
bèn niệm khi đó; c̣n cách này mỗi ngày chín lần, mỗi
lần niệm mười câu Phật hiệu, lấy nó làm
định khóa, thật sự chẳng tốn thời
gian, chẳng lỡ làng công việc. Pháp môn này quả thật
vô cùng thuận tiện, phù hợp với “nhất hướng chuyên niệm”.
“Cánh hạ tắc như Quán Kinh
sở thuyết ác nghịch chi nhân, lâm dục mạng chung,
đắc linh thánh giáo, chí tâm hối cải, thập niệm
xưng danh, diệc đắc văng sanh, cố vân thập niệm
tất sanh dă” (thấp hơn nữa là như Quán Kinh nói
kẻ ác nghịch lúc sắp mất mạng, được
nghe thánh giáo, chí tâm hối cải, xưng danh mười tiếng,
cũng được văng sanh, nên nói là “mười niệm
ắt văng sanh”). Điều này được nói trong kinh
Quán Vô Lượng Thọ. Kinh nói kẻ tội nghiệp Thập
Ác, Ngũ Nghịch sẽ đọa A Tỳ địa ngục,
đại ác chẳng thể tha, kẻ ấy khi lâm chung, nếu
gặp được một người niệm Phật
khuyên nên niệm Phật, bèn chân tâm hối cải. Có thể
chân tâm hối cải là do thiện căn trong đời quá
khứ hiện tiền, cả đời này chẳng tu điều
lành nào. Kẻ Thập Ác, Ngũ Nghịch, lâm chung quay đầu,
thật sự hối cải, niệm A Di Đà Phật mười
tiếng bèn tắt hơi, vẫn có thể văng sanh. Đây
là điều được nói trong nguyện thứ mười
tám trong bốn mươi tám nguyện của A Di Đà Phật,
pháp môn này quá thù thắng. Tiếp đó, lăo cư sĩ bảo
chúng ta: “Hành giả ưng tri”
(hành giả hăy nên biết), hành giả là người niệm
Phật, nhất định phải biết. “Nhất hướng chuyên niệm
chỉ tùng sơ phát tâm niệm Phật, nhất trực
đáo lâm chung tối hậu nhất niệm” (“một mực
chuyên niệm” nghĩa là kể từ lúc mới phát tâm niệm
Phật thẳng tới một niệm cuối cùng lúc lâm
chung), đó gọi là nhất hướng chuyên niệm. “Nhi kỳ quan kiện thật tại
tối hậu” (nhưng mấu chốt quả thật
là lúc cuối cùng), quan trọng nhất là lúc quư vị sắp
mất, một niệm cuối cùng là A Di Đà Phật th́ quư
vị mới có thể văng sanh. Một niệm cuối cùng
khi lâm chung phải là A Di Đà Phật! Do vậy, trợ niệm
rất trọng yếu, trọng yếu ở chỗ nào?
Trợ niệm là do sợ người ấy trong một
niệm cuối cùng sẽ quên sạch, chúng ta dùng phương
pháp này để nhắc nhở, khiến cho một niệm
cuối cùng của người ấy là A Di Đà Phật,
người ấy sẽ chắc chắn văng sanh. Chẳng
cần biết công phu niệm Phật suốt đời của
người ấy ra sao, một niệm cuối cùng rất
trọng yếu. Đối với một niệm cuối
cùng, người ta thường chẳng thể nắm chắc,
nếu tập khí phiền năo dấy lên hiện hành, sẽ
bỏ lỡ cơ hội này. Niệm Phật suốt đời,
tới một niệm cuối cùng, trong ḷng có vướng
mắc th́ hỏng rồi! Những chuyện như vậy
chúng tôi đă đích thân trông thấy!
Tiếp đó là nêu tỷ
dụ: “Như thượng thuyết
ác nghịch chi nhân” (kẻ ác nghịch như vừa mới
nói trên đây), đó là kẻ Ngũ Nghịch, Thập Ác. “Thập thanh niệm Phật”,
kẻ ấy chỉ niệm mười tiếng. “Đệ nhất thanh thị
sơ niệm, đệ thập thanh tắc mạng chung”
(Tiếng thứ nhất là niệm đầu tiên, tiếng
thứ mười bèn mạng chung), vẫn coi như là “tùng sơ phát tâm trực chí mạng
chung quân tại tŕ danh” (từ sơ phát tâm cho đến
khi mạng chung đều luôn tŕ danh). Người ấy phước
báo quá to, cả đời làm ác, lâm chung gặp được
bạn lành, vẫn văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế
giới. Vốn phải đọa lạc A Tỳ địa
ngục, quư vị thấy: Đă đưa kẻ đó từ
A Tỳ địa ngục đến thế giới Cực
Lạc làm Phật. Bởi lẽ, người ấy phù hợp
tông chỉ “nhất hướng
niệm Phật”, quá thù thắng! Chúng ta chớ nên không hiểu
điều này. Chuyện này là có, rất khó có, rất hy hữu;
nhưng người niệm Phật chúng ta nhất thiết
chớ nên có tâm lư cầu may: Hiện thời, ta làm một ít
chuyện xấu vẫn chẳng sao; khi lâm chung, ta c̣n có cách,
ta vẫn trở tay kịp, [nghĩ như vậy] là sai rồi!
Khởi lên ư niệm ấy chính là ác niệm khôn sánh, toan kiếm
kẽ hở trong bổn nguyện của A Di Đà Phật.
Đấy là điều quá đáng ghét, chắc chắn chẳng
thể nào chấp nhận được! Do vậy, chúng
ta chớ nên không biết chuyện này. Con người phải
thật thà, phải thành khẩn, chớ nên có một ác niệm.
Có ác niệm tức là bất hảo mất rồi!
“Phản chi, như hữu nhân niệm
Phật sổ thập niên, hoặc ư tối hậu giai
đoạn, khinh thị tŕ danh nhi cải hành tha pháp, hoặc
ư lâm chung bất hân Cực Lạc nhi luyến thế gian,
vị năng niệm Phật, thị tắc bất danh nhất
hướng chuyên niệm” (ngược lại, như có
kẻ niệm Phật mấy chục năm, nhưng trong
giai đoạn cuối cùng, lại coi thường pháp tŕ
danh, đổi sang tu phép khác, hoặc lúc lâm chung chẳng ưa
thích Cực Lạc, luyến tiếc thế gian, chưa thể
niệm Phật, sẽ chẳng thể gọi là “một mực
chuyên niệm”). Chuyện này chúng tôi cũng thấy rất
nhiều, có thật; không chỉ có, mà c̣n rất nhiều! Tới
lúc lâm chung, người ấy lưu luyến thế giới
này, lưu luyến lớn nhất là t́nh cảm đối
với người thân, [đó là] tập khí nặng nhất.
V́ vậy, trong sách Sức Chung Tu Tri, cổ đại đức
đă bảo: Nhằm tiễn người ấy đi văng
sanh, khi tiễn người ấy sắp văng sanh trong chốc
lát, tốt nhất là đừng để người ấy
thấy mặt người nhà, quyến thuộc, con cái, v́
sao? Trông thấy sẽ động tâm, hễ động
tâm sẽ hỏng chuyện! V́ thế, hăy để cho bạn
bè trong nhà Phật, đồng tu niệm Phật tới chăm
sóc người ấy, tiễn người ấy văng sanh. Sau
khi người ấy văng sanh, người nhà, quyến thuộc
mới có thể tiến vào. Hơn nữa, thường là
tám tiếng đồng hồ sau khi [người ấy đă
tắt hơi], người nhà, quyến thuộc mới được
bước vào, v́ sợ nhiễu loạn trong khi thần thức
người ấy đang rời khỏi [thân xác]. Người
thật sự văng sanh, hễ tắt hơi bèn ra đi, văng
sanh nhanh chóng. Có người nhờ vào trợ niệm, tuy tắt
hơi, nhưng hoàn toàn chẳng đi, linh hồn vẫn c̣n
quanh quẩn bên thân thể, lúc ấy công đức niệm
Phật vô cùng thù thắng, khiến cho người ấy
nghe mỗi âm thanh đều là Phật hiệu, cuối
cùng cũng theo Phật hiệu ra đi th́ tốt lắm! Phải
biết: Niệm Phật đưa [thần thức của
người đă mất] đi văng sanh rất nhiều. Đúng
là có nhiều người văng sanh nhờ vào trợ niệm.
V́ thế, trợ niệm phải đúng pháp. Nếu chẳng
đúng pháp sẽ phiền phức rất lớn!
Chúng ta xem
đoạn kế tiếp: “Hoặc
nghi niệm Phật hà dĩ hữu như thị công đức”
(hoặc nghi niệm Phật, niệm Phật làm sao có công đức
như thế cho được). Nghi là một căn bản
phiền năo. Căn bản phiền năo gồm sáu món, sau tham,
sân, si, mạn là nghi, cuối cùng là ác kiến. Ác kiến là
Tư Hoặc, gồm Thân Kiến, Biên Kiến, Kiến Thủ
Kiến, Giới Thủ Kiến, Tà Kiến, gọi gộp
chung là Ác Kiến. Nghi là chướng ngại lớn nhất
của Bồ Tát, Bồ Tát chẳng thể khai ngộ, chẳng
thể kiến tánh, người niệm Phật chẳng
thể văng sanh đều do phạm phải chữ [Nghi] này.
Đấy chẳng phải là chân tín, do ḷng tin không kiên định.
Chẳng phải là nói quư vị chẳng có tín tâm, mà là nói [quư
vị chưa có ḷng] tin một trăm phần trăm chẳng
nghi ngờ! Tín tâm chín mươi chín phần trăm, vẫn
c̣n có một phần nghi, một phần nghi ấy sẽ là
chướng ngại nghiêm trọng, chướng ngại quư
vị chẳng thể thành tựu, quư vị nói chuyện này
có phiền phức hay chăng? Trong quá khứ, chúng tôi nghe
thầy giảng, [cảm thấy] rất khó lư giải, thầy
đă nêu một thí dụ. Thầy nói thí dụ như cái chén
trà này đựng đề hồ, cả một chén đề
hồ đầy ắp, đề hồ là thức uống
ngon nhất. Trong ấy có một giọt độc dược; do một giọt như vậy,
cả chén đề hồ đều biến thành độc
dược, quư vị uống một hớp sẽ phải
tử vong. Điều này nói ǵ vậy? Quư vị có ḷng tin
chín mươi chín phần trăm, một phần trăm
là nghi, đó là một giọt độc dược phá hoại
chín mươi chín phần trăm tín tâm của quư vị. Tỷ
dụ hay lắm! Khiến cho chúng ta thật sự có thể
đề cao cảnh giác, chớ nên hoài nghi kinh giáo, chớ
nên hoài nghi Phật, Bồ Tát, chớ nên hoài nghi thiện
căn, phước đức, nhân duyên của chính ḿnh. Có
một tí hoài nghi sẽ chướng ngại chính ḿnh thành tựu!
Chân tín, quư vị thấy kinh nói đến chân tín nguyện,
chân tín, thiết nguyện (ḷng tin chân thật, nguyện thiết
tha), công đức ấy vô cùng thù thắng.
“Nhân năng niệm sở niệm,
giai thị Thật Tướng cố” (v́ năng niệm
và sở niệm đều là Thật Tướng), cụ
Niệm Tổ giải thích v́ sao niệm Phật có công
đức thù thắng như thế? Năng niệm là giác
tâm, sở niệm là quả Phật (vị Phật đă
chứng quả), nhân quả tương ứng. Giác tâm chẳng
mê là Thật Tướng, quả Phật cũng là Thật
Tướng; v́ thế, công đức chẳng thể
nghĩ bàn. Người niệm Phật lâm chung, kẻ Ngũ
Nghịch, Thập Ác lâm chung niệm Phật mười niệm
đều văng sanh, từ A Tỳ địa ngục bèn
thành Phật, vượt thoát lục đạo, vượt
thoát mười pháp giới, tới thế giới Cực
Lạc làm A Duy Việt Trí Bồ Tát, đều là Thật Tướng.
“Di Đà Yếu Giải vân: Quang
tắc hoành biến thập phương, thọ tắc thụ
cùng tam tế. Hoành thụ giao triệt, giai Pháp Giới Thể.
Cử thử thể tác Di Đà thân độ, diệc tức
cử thử thể tác Di Đà danh hiệu. Thị cố
Di Đà danh hiệu tức chúng sanh Bổn Giác Lư tánh. Tŕ
danh tức Thỉ Giác hợp Bổn, Thỉ Bổn bất
nhị, sanh Phật bất nhị. Cố nhất niệm tương
ứng nhất niệm Phật, niệm niệm tương
ứng niệm niệm Phật dă” (Sách Di Đà Yếu
Giải viết: “Quang theo chiều ngang trọn khắp mười
phương, Thọ theo chiều dọc tột cùng ba đời.
Ngang và dọc xen nhau thấu triệt, đều là Pháp Giới
Thể. Nêu lên cái Thể ấy để làm thân và cơi nước
của Phật Di Đà; mà cũng lấy cái Thể ấy
tạo thành danh hiệu Di Đà. V́ thế, danh hiệu Di Đà
chính là Bổn Giác Lư tánh của chúng sanh. Tŕ danh là Thỉ Giác
hợp với Bổn Giác. Thỉ Giác và Bổn Giác chẳng
hai. Chúng sanh và Phật chẳng hai. V́ thế, một niệm
tương ứng một niệm Phật, niệm niệm
tương ứng niệm niệm Phật”). Chuyện này Phật,
Bồ Tát, tổ sư đại đức đă giảng
thấu triệt. Quang chiếu trọn mười
phương, tượng trưng không gian. Thọ là quá khứ,
hiện tại, tương lai, đại biểu thời
gian; nay chúng ta gọi là “thời - không”. “Hoành thụ giao triệt”, Hoành (chiều ngang) là không
gian, Thụ (chiều dọc) là thời gian. Thời gian và
không gian đều vô lượng, vô tận, chẳng có ngằn
mé. Đấy là Pháp Giới Thể, đấy là công đức
viên măn trong tự tánh; kinh Hoa Nghiêm nói đến Thể, Tướng,
Dụng. Nêu lên cái Thể ấy để làm Di Đà thân, [thân
ấy] tức là Pháp Tánh thân, Tây Phương Tịnh Độ
là Pháp Tánh Độ, chẳng rời khỏi tự tánh. Lấy
cái Thể ấy làm danh hiệu Di Đà, tức là danh hiệu
của Pháp Tánh. V́ thế, danh hiệu này là Bổn Giác Lư
tánh của hết thảy chúng sanh, tức là đức hiệu
của tự tánh vốn sẵn trọn đủ. Dùng danh
hiệu rất sâu này để kêu gọi tự tánh của
chúng ta quay trở về.
Trong Mật
giáo có nói “tam mật tương ứng”, nhưng trong Tịnh
Tông cũng phải nói tới tam mật tương ứng.
Câu danh hiệu này chẳng khác ǵ mật chú trong Mật Tông,
nó là tiếng Phạn. A Di Đà Phật là phiên âm. Nó là tự
tánh, v́ thế, quư vị phải hiểu ư nghĩa này. A nghĩa
là Vô, Di Đà nghĩa là Lượng, Phật nghĩa là Giác.
Quư vị nghĩ tới Giác, nhất định sẽ nghĩ
đến Giác - Chánh - Tịnh. Chữ Giác trong tựa đề
kinh này là ǵ? “Chánh” là b́nh đẳng, b́nh đẳng th́ mới
Chánh; trước đó là Thanh Tịnh, Giác - Chánh - Tịnh,
Thanh Tịnh là Tịnh, B́nh Đẳng là Chánh, Giác. Vô lượng
giác, vô lượng b́nh đẳng, thanh tịnh, thời thời
khắc khắc nhắc nhở chính ḿnh, tự nhiên tất
cả hết thảy ô nhiễm đều chẳng c̣n, quư
vị trở về Giác - Chánh - Tịnh, trở về Thanh
Tịnh B́nh Đẳng bèn tịnh. Thỉ Giác hợp với
Bổn Giác. Thỉ Giác và Bổn Giác chẳng hai. Chúng sanh và
Phật chẳng hai, chúng sanh bèn thành Phật. Đó là “nhất niệm tương ứng
nhất niệm Phật, niệm niệm tương ứng
niệm niệm Phật”. Tương ứng bằng cách
nào? Từ chỗ này, chúng ta mới biết được
tin tức. Đấy cũng là như chúng tôi thường
nhắc nhở đồng học, tương ứng như
thế nào? Niệm niệm tương ứng với “thanh
tịnh, b́nh đẳng, giác”; nhân đă tương ứng,
quả bèn tương ứng. Nơi nhân là Thỉ Giác, là chúng
sanh; nơi quả là Bổn Giác, là Phật. Nơi quả là
ǵ? Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm là tương
ứng. Có nhân, nhất định có quả. Do vậy, từ
tựa đề kinh này, quư vị nh́n vào nửa phần
sau và nửa phần trước sẽ thấy: Thỉ Giác
và Bổn Giác chẳng hai, chúng sanh và Phật chẳng hai. Nhất
niệm tương ứng nhất niệm Phật, niệm
niệm tương ứng niệm niệm Phật. Pháp môn
thù thắng như vậy t́m đâu ra?
Trừ Tịnh Tông ra, sẽ chẳng t́m được!
Thù thắng, hy hữu, khó gặp khôn sánh! V́ vậy, chúng ta
phải quư trọng, phải thật sự tu tập!
Ở
đây, nhân tiện, tôi báo một tin cùng mọi người,
tối nay, tôi đáp máy bay sang Úc, ngày mai là mồng Một sẽ
tới nơi, mồng Một lên núi, chẳng thể giảng
kinh. Ngày mốt là mồng Hai, chúng tôi sẽ bắt đầu
giảng tiếp. Từ
Internet, quư vị sẽ có thể thu được [bài giảng].
Tuy rời khỏi [nơi đây] hai mươi mấy ngày,
nhưng chúng ta vẫn cùng nhau giảng kinh, học tập
chẳng gián đoạn. Được rồi! Cảm ơn
mọi người.
Tịnh Độ Đại
Kinh Giải Diễn Nghĩa
Phần 13 hết
[1] Văn Xương Xă là một đoàn thể
quy tụ những người cùng chí hướng muốn
thực hiện những điều khuyên dạy trong bài Âm
Chất Văn của Văn Xương Đế Quân.
[2] Ngọc Lịch Bảo Sao là thiện
thư của Đạo Giáo, tương truyền do một
người tu hành là Đạm Si đạo nhân vào cơi Âm,
chứng kiến Thập Điện Diêm Vương xử
án, ghi chép lại. Sách c̣n chép những lời khuyên dạy của
các vị thần chưởng quản âm phủ. Nội
dung có tác dụng khuyến thiện rất mạnh, nên sách
này cũng được Phật môn Trung Hoa coi trọng.